-->

Tư vấn pháp luật: Bố có quyền nuôi con dưới 03 tuổi khi không có đăng ký kết hôn không?

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp quyền nuôi con dưới 03 tuổi của bố khi bố và mẹ không có đăng ký kết hôn không.

Hỏi: Tôi và vợ có khoảng thời gian sống và làm việc ở nước ngoài nên không làm giấy đăng ký kết hôn. Nhưng cả 2 bên gia đình đã gặp mặt và làm đám cưới vắng mặt cô dâu và chú rể. Chúng tôi có 1 đứa con chung 2 tuổi. Hiện nay giữa chúng tôi có mâu thuẫn không thể hòa giải.Vì chưa có giấy đăng ký kết hôn nên tôi biết không phải ra tòa để giải quyết. Hộ khẩu thường trú tôi ở Hải Dương còn vợ tôi ở Hà Tây cũ nay đã thuộc Hà Nội. Hiện chúng tôi đang ở Sài Gòn. Cả 2 chúng tôi đều được muốn nuôi con. Con tôi được sinh ở nước ngoài. Trong giấy khai sinh của con tôi đã ghi tôi là bố. Trong trường hợp nào người bố được quyền nuôi con khi bé dưới 3 tuổi mẹ của bé có khoảng thời gian đã bỏ đi khi xảy ra cãi vã, tôi không xác minh được đã đi đâu. Có thể với người tình).Chúng tôi có thể giải quyết tranh chấp ở Sài Gòn hoặc Hà Nội không hay phải về quê? (Tôi không muốn giải quyết ở quê vì gia đình tôi cũng có chút tiếng tăm).Cách làm thủ tục như thế nào và ở cơ quan nào? (Nguyễn Nam - Hải Dương)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

"Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con".

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

"Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".

Về nguyên tắc, theo Khoản 3 Điều 81,con bạndưới 36 tháng tuổinênđược giao cho mẹ trực tiếp nuôi.Tuy nhiên, nếutrường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc người mẹ từ chối nuôi con thì bạn có thể được Tòa án tuyên cho nuôi con.

Thủ tục và thẩm quyền

Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình quy định.Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

"1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này".

Như vậy, bạn sẽgửi đơn đến Tòa án nhân dân nơi mà vợ bạn đang cư trú (nơi vợ bạn đang thường xuyên sinh sống để giải quyết yêu cầu về quyền nuôi con).

Hồ sơ:

- Đơn xin đơn phương ly hôn theo mẫu Tòa nơi nộp đơn, có yêu cầu về xác định quyền nuôi con

- Bản sao có chứng thựcCMND, sổ hộ khẩu của vợ,chồng;

- Bản sao có chứng thực Giấy khai sinh của con;

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.