-->

Tranh chấp đất đai giải quyết theo án dân sự hay án hành chính?

Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 quy định về Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp .

Hỏi: Tôi có 1 thửa đất đồi được bố mẹ chia cho từ năm 1990, thửa đất do bố mẹ tôi khai phá từ năm 1973 và sử dụng ổn định. Đến 2008, thì có 2 gia đình đến nhận là đã được UBND huyện cấp đất thổ cư vào năm 1994 mà gia đình tôi không được biết. Ngày toàn dân tự đi kê khai đất, tôi có nhờ người nhà đến chỉ hộ phần đất và ranh giới, tất cả các hộ gia đình đều không được đo đạc.Do chỉ ước chừng nên tôi kê khai diện tích đất là 2000m2, nhưng thực tế là 7000m2. Nhà tôi đã làm sổ đỏ thửa đất với diện tích là 2000m2. Diện tích đất 2 gia đình kia được cấp không nằm trong 2000m2 trong sổ đỏ, nhưng nằm trong phần diện tích bố mẹ tôi khai phá và đang sử dụng ổn định từ 1973, phần đất đó cũng không có quyết định thu hồi đất từ UBND huyện. Hiện 2 gia đình kia không có sổ đỏ, chỉ có bìa trắng và không có chữ ký giáp ranh của tôi. Trong đơn xin đăng ký sử dụng đất, sơ đồ các thửa đất không phải là chữ kí của tôi. 2 gia đình kia khai với tòa là đã đưa cho bố tôi 50 nghìn đồng mua đất, nhưng không đưa ra được giấy tờ. Hiện bố tôi đã mất, nhưng mẹ vẫn còn sống.UBND xã hòa giải nhưng tôi không đồng ý với phương án hòa giải của xã. Năm 2010, tôi làm đơn kiện 2 gia đình kia tới tòa án nhân dân huyện (kiện 2 gia đình cùng một lá đơn). Nhưng không được tòa án xét xử nên tôi đã làm đơn gửi các cơ quan có thẩm quyền khác nhưng đều được hướng dẫn về tòa án huyện. Quá lâu không được giải quyết nên tôi đã vào tận tòa án để gặp các cán bộ. Ở đây họ nói: do tôi kiện 2 gia đình kia trong cùng một đơn kiện, điều này không đúng luật mà 2 gia đình mỗi gia đình phải 1 đơn. Cán bộ hướng dẫn tôi rút đơn gửi sang UBND huyện. Chuyển từ án dân sự sang án hành chính. Kiện UBND huyện cấp không đúng theo luật, vậylàm như thế nào với trường hợp của tôi? (Xuân Phượng - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lê Thị Hồng Sơn - Tổ tư vấn pháp luật Bất động sản của Công ty Luật Everest - trả lời

Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 quy định vềĐính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp như sau:

"2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.

3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai".

Theo đó, trường hợp này do có căn cứ chwungs minh việc cấp đất của Uỷ ban huyện là sai nên bạn có thể lựa chọn hình thứcrút đơn khởi kiện tại Tòa vàlàm đơn khiếu nại gửi chủ tịch ủy ban nhân dân huyện để yêu cầuhủy quyết định cấp đất thổ cư. Đồng thời, bạn đưa ra được căn cứ chứng minh quá trình sử dụng, khai phá đất hoang của gia đìnhbạn từ 1973 đến nay và không nằm trong diện quy hoạch thu hồi có thể được xem xét để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.