-->

Trách nhiệm hình sự với người chưa thành niên phạm tội

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

Hỏi: Chào luật sư, em có một đứa cháu bị 1 nhóm thanh niên đánh nhiều lần và 1 ngày cháu đi học đã mang theo dao đi và cuối buổi tan học cháu và 2 bạn của cháu tan học về và vào quán nước ngồi uồng nước thì bị 1 nhóm thanh niên xuống xe vào quán nước để đánh cháu và cháu đã chống cự lại là dùng dao đâm thanh niên đến đánh cháu. Cho em hỏi cháu chưa đến tuổi vị thành niên mà đâm người bị thương tích như vậy thì trong luật hình sự thì bị xử lý như thế nào? Và bên bị hạiđãđi viện sau 04ngày đã đi giám định thương tật trên 60%. mà nhà bị hại làm đơn kiện thì cháu em sẽ bị xử lý như thế nào luật sư cho em biết được không? (Thành Tiến - Cao Bằng)
 >>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự


“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”

Do bạn không để cập đến tuổi cụ thể của cháu bạn, nên bạn có thể đối chiều với từng trường hợp sau:

Trước hết, Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;Có tổ chức;Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;K) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm…”

Theo như bạn trình bày, thì người bị hại có tỷ lệ thương tật là 60% và thuộc khoản 2 của Điều 104 tương ứng với mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù và là tội nghiêm trọng.Trường hợp 1: cháu bạn là người dưới 16 tuổi thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.Trường hợp 2: cháu bạn là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuồi thì cháu sẽ phải chịu trách trách nhiệm về tội phạm này.

Song căn cứ theo quy định tại Điều 69 BLHS thì “2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục…”

Như vậy, cần căn cứ vào hậu quả đã xảy ra cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi cháu bạn đã thực hiện và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cháu bạn có thể được xem xét để miễn trách nhiệm hình sự hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, bạn cần lưu ý rằng, có thể cháu bạn đã phạm tội thuộc khoản 2 Điều 104 BLHS nên khi xét thấy có dấu hiệu tội phạm Cơ quan điều tra sẽ ra quyết đinh khởi tố vụ án hình sự, mà không phụ thuộc vào việc người bị hại có yêu cầu khởi tố hay không.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.