-->

Tội hiếp dâm trẻ em từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

Hỏi:Bạn gái tôi khoảng 17 tuổi, tôi và bạn gái tôi yêu nhau khoảng hai tháng. Có một người xa lạ yêu bạn gái tôi và theo đuổi cô ta hơn 1 năm. Nhưng bạn gái tôi không có tình cảm với hắn ta. Hắn ta nhiều lần làm phiền gia đình bạn gái tôi. Bạn gái tôi không chịu được và trốn ở Đồng Nai. Hắn đã tìm đến tới lui thăm hỏi, sau đó lợi dụng việc bạn gái tôi ra ngoài một mình, hắn đã bỏ thuốc mê mà cưỡng hiếp bạn gái tôi.Sau khi cưỡng hiếp, bạn gái tôi đau khổ và có ý định tự tử nhưng không thành. Sau khi hắn cưỡng hiếp hắn tới luônbệnh viện để thăm, nhưng gia đình không cho. Xin hỏi luật sư:Hắn phạm tội như thế chiệu án phạt bao nhiêu năm tù trở lên? (Hoàng Quý - Trà Vinh)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luậthình sựcủa Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Căn cứ theo quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009 về tôi hiếp dâm:

"1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

A) Có tổ chức;

B) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

C) Nhiều người hiếp một người;

D) Phạm tội nhiều lần;

Đ) Đối với nhiều người;

E) Có tính chất loạn luân;

G) Làm nạn nhân có thai;

H) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

I) Tái phạm nguy hiểm.

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân:

A) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

B) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

C) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

Theo như thông tin bạn cung cấp, người kia đã lợi dụng bạn gái bạn ra ngoài một mình, bỏ thuốc mê và cưỡng hiếp bạn gái bạn, bạn gái bạn 17 tuổi.

Vì em gái bạn chưa đủ 18 tuổi tức là thuộc nhóm người thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Căn cứ theo khoản 4 Điều 111thì người phạm tội thực hiện hành vi bỏ thuốc mê,lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân nhằm thực hiện hành vigiao cấu với nạn nhân,trái với ý muốn của nạn nhântừ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm (Khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự).

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm

Đây tội phạm thuộc nhóm tội rất nghiêm trọng được quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự (đã sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau: "Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình".

Đồng thời, phảibồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Người thực hiện hành vi phạm tội sẽ phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạmcho người bị hại, cụ thể, tại Điều 609 và Điều 611 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau:

"Điều 609.Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Điều 611.Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

2. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thầndo các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.