-->

Quyền nuôi con và nghĩa vụ tài sản khi ly hôn?

Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.

Hỏi: Hai vợ chồng đều có công ăn việc làm. Chồng tôi làm giám đốc còn tôi là chuyên viên. Thu nhập của tôi chỉ bằng một nửa của chồng. Nhà thì đang mua trả góp, chưa giao nhà. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu bây giờ mà ly hôn thì tôi có được quyền nuôi con không? Căn nhà trả góp xử lý thế nào? (Thu Hường - Bắc Giang)

 Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) thì:Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: "1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".

Điều 60 Luật HN&GĐ quy định:Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn:1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết".

Theo như quy định trên, để xác định được quyền nuôi con khi ly hôn, thìchịcần phải xét đến độ tuổi chính xác của con tại thời điểmchịvà chồngchịgiải quyết ly hôn. Nếuchịvà chồng không thể thỏa thuận người trực tiếp nuôi con thì sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết. Lúc này, Tòa án sẽ giải quyết dựa trên nguyên tắc trên, theo đó:Nếu con củachịdưới 36 tháng tuổi, con sẽ được giao chochịnuôi dưỡng, trừ khichịkhông thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con (xét về mặt thời gian, đặc thù công việc của bạn, khả năng giáo dục con). Nếu conchịtừ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi: quyền nuôi con sẽ được giao cho bên nào đáp ứng tốt hơn các điều kiện để con phát triển thể chất, tinh thần.Nếu con bạn từ đủ 7 tuổi trở lên thì quyền nuôi con được Tòa án giải quyết dựa trên việc xem xét nguyện vọng của con.

Đối với việc nuôi con, Luật Hôn nhân gia đình quy định bên nào không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ phải cấp dưỡng, vì vậy mà điều kiện để xét nuôi con không dựa trên việc bên nào có thu nhập cao hơn bên nào.

Theo như quy định trên, sau khi ly hôn thì vợ chồngchịvẫn phải có nghĩa vụ trả nợ căn nhà trên. Vì đây là căn nhà mua theo hình thức trả góp, vì vậy, khi ly hôn, nếu bên nào được giữ quyền sử dụng ngôi nhà thì có nghĩa vụ phải thanh toán cho bên kia một nửa giá trị căn nhà mà các bên đã thanh toán được. Còn về phần tiền còn lại chưa thanh toán, hai bên đều có trách nhiệm tiếp tục phải thanh toán số tiền này.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.