-->

Quyền có họ, tên của cá nhân

Quyền có họ, tên là một trong những quyền cơ bản của công dân. Họ, tên là yếu tố cơ bản để một người nhận diện được người này với người khác khi đã biết những đặc điểm riêng của người đó (hình dáng, giọng nói, ...)

Cá nhân khi sinh ra đã có những quyền cơ bản mà pháp luật công nhận ngay từ khi chào đời, một trong các quyền đó là quyền đối với họ, tên. Thực tế, một đứa trẻ sinh ra có thể có rất nhiều tên gọi: tên khai sinh, tên gọi ở nhà, tên thường dùng… Trong đó, họ và tên được ghi nhận trong giấy khai sinh được xác định là họ và tên có giá trị pháp lý.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Căn xác định họ cho cá nhân

Theo quy định của pháp luật, họ của cá nhân được xác định theo một trong các căn cứ sau:

(i) Theo thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ của cá nhân (lấy theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ)

(ii) Theo tập quán (nếu không có thỏa thuận)

(iii) Theo họ của mẹ đẻ (nếu chưa xác định được cha đẻ)

Theo quy định của pháp luật thì cha đẻ, mẹ đẻ của cá nhân là người trực tiếp sinh ra đứa trẻ hoặc người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ.

Trong trường hợp, đứa trẻ bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ đẻ thì họ của đứa trẻ được xác định như sau:

(i) Theo thỏa thuận giữa cha mẹ nuôi của cá nhân (theo họ cha nuôi hoặc họ mẹ nuôi)

(ii) Theo họ của người nuôi dưỡng (khi chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi)

(iii) Theo đề nghj của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em (khi đứa trẻ chưa được nhận làm con nuôi)

(iv) Theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ (khi trẻ đang được người đó nuôi dưỡng tạm thời)

Quy định của pháp luật về đặt tên cho cá nhân

(i) Không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác

(ii) Không được trái với các nguyên tắc cư bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015

(iii) Tên của cá nhân phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam

(iv) Không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải chữ

Nội dung quyền có họ, tên của cá nhân

(i) Cá nhân có quyền có họ, tên

Cá nhân có quyền đối với họ, tên tức là cá nhân có quyền được có họ và có tên. Quyền đối với họ, tên là quyền nhân thân được quy định cho mỗi cá nhân, gắn với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao. Tuy nhiên, quyền của cá nhân đó lại bị hạn chế ở chỗ: Đứa trẻ ngay từ khi sinh ra đã được pháp luật công nhận quyền đối với họ, tên. Tuy nhiên, đây chỉ là quyền pháp lý, việc thực hiện quyền này thông thường sẽ thuộc về một chủ thể khác, bởi lẽ, đứa trẻ đó không thể quyết định tên mình là gì và cũng không thể tự mình thực hiện quyền đi khai sinh cho mình khi chúng còn quá bé. Chính vì thế, đứa trẻ sinh ra, cha mẹ hoặc những cá nhân khác được quy định để thực hiện một phần quyền đối với họ, tên của đứa trẻ.

(ii) Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình

Theo quy định của pháp luật thì cá nhân được sử dụng họ, tên của mình để đảm bảo quyền và nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ pháp luật. Sử dụng họ, tên là việc cá nhân dùng họ tên của mình tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói riêng. Việc sử dụng họ, tên là một tất yếu. Trong xã hội, để đáp ứng nhu cầu của bản thân, đảm bảo quyền và nghãi vụ của mình được thực hiện, con người phải tham gia vào rất nhiều những giao dịch dân sự. Với mỗi quan hệ xã hội, các cá nhân tham gia với tư cách riêng. Trong đó, họ tên là một yếu tố định danh cá nhân, cá biệt hóa cá nhân đồng thời cũng là bằng chứng để xác định quyền lợi, trách nhiệm khi tham gia vào những quan hệ xã hội mang tính chất pháp lý. Chính vì thế, khi có sự tham gia của cá nhân vào các quan hệ xã hội thì đương nhiên cá nhân đó phải đưa ra ra thông tin về họ, tên và những thông tin khác liên quan đến nhân thân của chính cá nhân đó.

Tuy nhiên, việc sử dụng họ, tên phải hợp pháp và được pháp luật công nhận. Sử dụng bất hợp pháp tên gọi của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhân là xâm phạm quyền đối với họ, tên cả người đó.

(iii) Cá nhân được sử dụng bút danh, bí danh

Pháp luật công nhận cho mỗi cá nhân có thể có bút danh và bí danh để phục vụ công việc. Tuy nhiên, việc sử dụng bút danh hay bí danh này phải không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Pháp luật chưa quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của cá nhân sẽ phát sinh theo tên chính, tên khai sinh ahy bút danh, bí danh. BLDS quy định cá nhân có quyền có họ, tên và họ, tên chỉ được xác định là họ, tên theo khai sinh. Như thế đồng nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ của cá nhân chỉ được phát sinh dựa trên tên khai sinh? Pháp luật công nhận cho cá nhân có quyền sử dụng, khai thác bút danh, bí danh, tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng nghệ danh của các nghệ sĩ, ca sĩ có được pháp luật công nhận và bảo vệ không, khi yếu tố này cũng gắn liền với nhân thân của cá nhân?

(iv) Cá nhân được thay đổi họ, tên

Đối với quyền thay đổi họ, tên: Đây cũng là quyền liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá nhân, song lại được pháp luật ghi nhận ở một điều luật riêng biệt cho thấy sự quan trọng của việc thay đổi họ, tên của cá nhân. Cá nhân có quyền thay đổi họ, tên theo quy định tại Điều 27, 28 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Luật gia Nguyễn Thị Phương Hoa - Phòng tư vấn pháp luật trực tuyến của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.