Thời hiệu để xử phạt vi phạm hành chính là 1 năm tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm đối với vi phạm hành chính đã kết thúc và từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện.
Luật gia Hoàng Việt Dũng - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 1 Điều 6 Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính như sau:
"1.Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau: a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau: Vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm. Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về thuế; b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được quy định như sau: Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm. Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm; c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính; d) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt."
Theo quy định nêu trên thì thời hiệu để xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm đối với vi phạm hành chính đã kết thúc và từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện.
Do đó, trong tình huống nêu trên, anh (chị) vi phạm hành chính vào ngày 5/2/2014, nhưng đến ngày 25/4/2015 anh (chị) mới đến cơ quan lập biên bản để xử lý vi phạm. Như vậy là đã quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Điều 65 Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 quy định những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
"1. Không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong những trường hợp sau đây: a) Trường hợp quy định tại Điều 11 của Luật này; b) Không xác định được đối tượng vi phạm hành chính; c) Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 6 hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại khoản 3 Điều 63 hoặc khoản 1 Điều 66 của Luật này; d) Cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi phạm hành chính đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt; đ) Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm theo quy định tại Điều 62 của Luật này.
2. Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.
Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật bị tịch thu, tiêu hủy; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện".
Như vậy, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ chỉ có thời hiệu là 1 năm . Cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định xử phạt trong thời hạn 1 năm tính từ ngày chấm dứt hành vi vi phạm đó. Hết thời hiệu xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi đó.
Đối với trường hợp của anh (chị), đến ngày 25/04/2015 đã hết thời hiệu 1 năm vì vậy cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này.
Tuy nhiên, cơ quan có thẩm có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định xử lí hành chính đối vối hành vi vi phạm luật giao thông đường bộcủa bạn nữa, tuy nhiên cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tịch thu chiếc xe máy đó sung vào ngân sách nhà nước hoặc áp dụng biện pháp khác phục hậu quả.
Khuyến nghị:- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận