-->

Quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn quy định tại Điều 37 Luật Lao động năm 2012.

Hỏi: Ngày 21/10/2013, tôi có ký hợp đồng đào tạo với công ty có điều khoản cam kết làm việc ít nhất 3 năm kể từ ngày kết thúc đào tạo; bồi thường chi phí đào tạo theo quy định hợp đồng. Ngày 2/3/14 ký hợp đồng lao động 1 năm, Ngày 2/3/15 ký hợp đồng lao động 03 năm- Ngày 2/3/16 tôi gửi đơn xin nghỉ việc, báo với trưởng đơn vị và đã được ký chấp thuận kết thúc việc vào ngày 1/4/16.Khi làm việc bên nhân sự, họ đưa ra thông báo và thoả thuận chấm dứt hợp đông lao động có khoản bồi thường chi phí đào tạo và giải thích việc tôi báo trước khi nghỉ 30 ngày không liên quan đến hợp đồng đào tạo lúc trước và không giao quyết định nghỉ việc- sổ bảo hiểm cho tôi đến khi tôi hoàn tất việc bồi thường. Xin cho hỏi, tôi đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật không, tôi có phải bồi thường và công ty giải thích- thưc hiện đúng theo pháp luật không? (Thu Hường - Phú Thọ)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Hoàng Việt Dũng - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 37 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:

"1.Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2.Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

3.Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.".

Theo đó, đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp khi đưa ra căn cứ đúng pháp luật ( một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 37) và báo trước cho người lao động một khoảng thời gian phù hợp quy định pháp luật ( khoản 2 Điều 37).

Hợp đồng lao động của anh/ chị là hợp đồng lao động xác định thời hạn, anh/ chị đã thực hiện báo trước cho công ty khi đơn phương chấm dứt hợp đồng nhưng lại không đưa ra lý do chắm dứt hợp đông (lý do xin nghỉ việc) nên trường hợp của anh/ chị là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì phải chịu nghĩa vụ theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động năm 2012.

Điều 43 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:

"1.Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2.Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3.Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này".

Theo điều 43 thì anh/ chị không được hưởng trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động ( công ty) nửa tháng tiền lương theo hợp đồng và phải hoàn trả chi phí đào tạo cho công ty nếu trong hợp đồng đào tạo có thỏa thuận về vấn đề này.

Việc tại thời điểm anh/ chị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động công ty mới đưa ra thỏa thuận về bồi thường chi phí đào tạo nghề là không đúng quy định pháp luật mà việc thỏa thuận này phải được thực hiện tại thời điểm ký hợp đồng đào tạo. Báo trước 30 ngày là thủ tục để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không áp dụng cho hợp đồng đào tạo nghề. Việc công ty không giao quyết định nghỉ việc và sổ bảo hiểm có thể là một trong những hình thức để đảm bảo anh/ hoàn trả chi phí đào tạo nghề.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.