Theo quy định tại Điều 183, luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua vào ngày 21/12/1990 là những văn bản có giá trị pháp lí cao ghi nhận sự tồn tại tích cực, lâu dài, bình đẳng của kinh tế tư nhân nói chung và DNTN nói riêng bên cạnh các thành phần kinh tế khác. Tiếp theo đó, sự tồn tại về mặt pháp lí của DNTN được ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Các dấu hiệu nhận diện doanh nghiệp tư nhân
Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về các dấu hiệu nhận diện DNTN như sau:
1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.
4. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
DNTN là một loại hình doanh nghiệp nên giống như những doanh nghiệp kinh doanh khác, DNTN là tổ chức có tên riêng được nhà nước thừa nhận thông qua việc nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp; mục đích của DNTN là thường xuyên, liên tục thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Bên cạnh những dấu hiệu chung của một doanh nghiệp kinh doanh thì DNTN còn có những dấu hiệu (đặc điểm) nhận diện riêng.
Các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp tư nhân
Đặc điểm thứ nhất: DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu.
Khái niệm doanh nghiệp, kinh doanh được quy định tại khoản 7, khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, thành lập và làm chủ có nghĩa là doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ. Tất cả các cá nhân đều có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân trừ những cá nhân không có quyền thành lập, quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam.
Đặc điểm thứ hai: DNTN không có tư cách pháp nhân.
Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
- Được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan;
- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như phân tích tại đặc điểm thứ nhất khi nhận diện DNTN thì DNTN do một cá nhân đầu tư vốn và làm chủ. Chủ DNTN có quyền sở hữu tài sản đầu tư vào DNTN; DNTN không có tài sản độc lập. Do vậy, DNTN không đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân.
Đặc điểm thứ ba: Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh thường được đặt ra đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp để chỉ về khả năng chịu trách nhiệm tài sản giữa doanh nghiệp với các khách hàng, chủ nợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm tài sản bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp là trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp do mình góp vốn đầu tư.
Bài viết được thực hiện bởi Luật gia Nguyễn Thu Trang - Công ty Luật TNHH Everest
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận