-->

Pháp luật chủ nô

Cùng với sự ra đời của Nhà nước chủ nô là sự hình thành và phát triển của pháp luật chủ nô. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật chủ nô rất chậm chạp và diễn ra trong một thời gian rất dài.

Cũng như Nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô ra đời, phát triển trên cơ sở quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ và thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Pháp luật chủ nô là ý chí của giai cấp chủ nó được nâng lên thành luật.
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

1. Bản chất của pháp luật chủ nô


Cùng với sự ra đời của Nhà nước chủ nô là sự hình thành và phát triển của pháp luật chủ nô. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật chủ nô rất chậm chạp và diễn ra trong một thời gian rất dài. Giai đoạn đầu những tập quán không thành văn có lợi cho giai cấp chủ nô được Nhà nước chủ nô duy trì, sửa đổi đôi chút cho phù hợp với điều kiện mới và thừa nhận chúng thành pháp luật.

Ví dụ 1: Tập quán "ăn miệng trả miệng", biện pháp đuổi khỏi địa phương, chế độ trách nhiệm tập thể ... Cùng với sự phát triển của Nhà nước và xã hội, các Nhà nước chủ nô đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để trực tiếp thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô.

Ví dụ 2: Các luật do Đại hội nhân dân, Nghị viện … ban hành.

Cũng như Nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô ra đời, phát triển trên cơ sở quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ và thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Pháp luật chủ nô là ý chí của giai cấp chủ nó được nâng lên thành luật. Nó quy định và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô là công dân có đầy đủ mọi quyền hành và lợi ích còn nô lệ thì không được coi là con người. Nô lệ không có một thứ quyền nào cả ngoài quyền "phải làm mọi việc mà chủ nô yêu cần và không được phản đối". Đối với pháp luật, nô lệ bị xem như là đã chết, họ chỉ được coi là khách thể của chế độ sở hữu, giết chết hoặc gây thương tích cho nô lệ chỉ bị coi là đã gây thiệt hại cho chủ sở hữu (chủ nô) mà không bị xem là đã phạm tội. Là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, cùng với Nhà nước chủ nô, pháp luật chủ nô giam hãm, đày đoạ nô lệ trong sự tối tăm. cực nhọc và khiếp sợ. Dưới góc độ xã hội thì pháp luật chủ nô là phương tiện để duy trì trật tự xã hội, quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội tạo điều kiện cho xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại và phát triển vì lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, tính xã hội của pháp luật chủ nô chưa nhiều và có nhiều hạn chế.

Tham khảo thêm về Pháp luật hành chính


2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật chủ nô

  • Pháp luật chủ nô củng cố quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và đối với nô lệ.
+ Hợp pháp hóa chế độ bóc lột tàn nhẫn của chủ nô đối với nô lệ. Pháp luật chủ nô luôn ghi nhận và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ. Quyền này bao gồm sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ một cách tuyệt đối và được truyền từ đời này qua đời khác.

Ví dụ: Luật La Mã quy định cho chủ nô có toàn quyền đối với tài sản, nghĩa là có thể sử dụng, có thể bán cho người khác hoặc huỷ diệt. Luật của một số nước chủ nô cho phép chủ nô có quyền dùng những hình phạt nặng nề nhất kể cả tử hình đối với nô lệ, thậm chí chủ nô có thể tự tuyên án và thi hành bản án tử hình đó đối với nô lệ. Những nô lệ già, ốm yếu khi không còn khả năng lao động có thể bị chủ nô đuổi ra khỏi nhà hoặc bị bỏ đói cho chết dần. Quyền tư hữu được pháp luật chủ nô bảo vệ rất chặt chẽ.

+ Pháp luật một số nước cho phép giam cầm, tra tấn con nợ tại nhà Nếu con nợ gán vợ, các con của mình cho chủ nợ thì sau 3 năm họ có thể được giải phóng thành người tự do. Nếu con nợ không được bạn bè, người thân bỏ tiền ra chuộc về thì có thể bị bán làm nô lệ hoặc có thể bị giết, thậm chí có thể bị chặt thành nhiều phần phụ thuộc vào số chủ nợ ...

Có thể nói pháp luật chủ nô coi tài sản giá trị hơn tính mạng con người. Mọi hành vi xâm hại tới tài sản của chủ nô đều bị coi là tội phạm và bị trừng phạt rất nặng.
Ví dụ: Theo luật Đôracông thì ăn cắp rau, quả trong vườn cũng bị tử hình còn luật La Mã thì cho phép giết tại chỗ những kẻ trộm ban đêm hoặc trộm có vũ khí …

  • Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng không bình đẳng trong xã hội

+ Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chỉ chủ nô mới được coi là công dân và pháp luật chia công dân (giai cấp chủ nô) ra thành nhiều loại nhiều thứ bậc khác nhau phụ thuộc vào số tài sản mà họ có. Cùng với việc phân loại công dân, pháp luật còn ghi nhận cho mỗi loại công dân những quyền hạn và nghĩa vụ khác nhau. Pháp luật của nhiều Nhà nước chủ nô quy định vua có quyền vô hạn.

Ví dụ: Luật La Mã quy.định: "Hoàng đê' không phải phục tùng pháp luật nào cả. Ý chí của hoàng đế là pháp luật đối với nhân dân." Những người thuộc các đẳng cấp cao trong xã hội thường có nhiều quyền hơn, được giữ những vị trí cao hơn trong bộ máy nhà nước. Những người bình dân hoặc công dân loại 4 không được tham gia vào các cơ quan nhà nước, không có đầy đủ các quyền như chủ nô khác và nếu vi phạm một số quy định của pháp luật thì họ có thể bị buộc trở thành nô lệ. Pháp luật chủ nô còn cho phép chủ nô có thể chuộc tội bằng tiền còn người tự do, người bình dân thì không có quyền đó.

+ Tập quán ăn miếng trả miếng chỉ áp dụng khi kẻ vi phạm và người bị hại có địa vị xã hội ngang nhau, còn nếu giới quý tộc xâm hại tới những người có địa vị xã hội thấp hơn thì chỉ phải nộp phạt.

Ví dụ: Theo luật Manh thì cùng phạm một tội nhưng nếu là chủ nô thì mức phạt là cách chức còn đối với những người khác thì có thể bị giết chết (cho voi dẫm chết hoặc bị thiêu chết).
Những người thuộc đẳng cấp thấp mà giáo huấn đối với những người thuộc đẳng cấp cao hơn thì bị đổ mỡ nóng vào miệng hoặc vào tai.

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì nô lệ chiếm số đông nhất nhưng họ không được coi là công dân; thậm chí không được coi là con người nên họ không có một quyền hạn nào. Tình trạng không bình đẳng trong xã hội chiếm hữu nô lệ không chỉ được ghi nhận trong pháp luật mà còn được bảo vệ rất chặt chẽ. Thông qua pháp luật, Nhà nước chủ nô yêu cầu vua có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp cưỡng chế để “những kẻ hạ,đẳng không chiếm được vị trí của những người thượng đẳng”.

  • Pháp luật chủ nô ghi nhận sự thống trì tuyệt đối của gia trưởng đối với vợ và các con trong gia đình

+ Trong gia đình chủ nô, người gia trưởng (chủ nô) có nhiều quyền hơn so với những thành viên khác. Luật mười hai bảng La Mã quy định năng lực pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào ba yếu tố: Trạng thái tự do, quốc tịch, địa vị trong gia đình đà người chủ gia đình hay người phụ thuộc). Với những quy định của pháp luật chủ nô về tình trạng không bình đẳng trong gia đình như vậy nên chủ nô thường thực hiện quyền thống trị tuyệt đối của mình đối với vợ và các con. Ở nhiều nước, vợ, các con của chủ nô tuy không phải là nô lệ nhưng bị coi là sở hữu của chủ nô.Con của chủ nô có quyền công dân, có địa vị pháp lý nhất định nhưng chủ nô có toàn quyền quyết định đến số phận, tính mạng của họ.

Ví dụ: Ở Nhà nước Spác, trẻ em sinh ra nếu bị coi là ốm yếu thì sẽ bị chủ nô giết chết. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hôn nhân được coi như một dạng hợp đồng mua bán, trong đó đối tượng bị mua bán là cô dâu. Chính vì vậy đối với con gái, khi ở nhà thì bố là ông chủ của cô ta còn khi lấy chồng thì chồng là ông chủ của cô ta. Đối với con trai, nếu hỗn láo với bố có thể bị chặt ngón tay, ngón chân hay bị bắt làm nô lệ hoặc bị giết chết. Tuy nhiên, những người con có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước thì quyền lực của người cha đối với anh ta sẽ bị hạn chế.

+ Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phụ nữ không thể nhân danh mình để kí kết các hợp đồng. Trong gia đình, địa vị của người vợ chỉ được xác định ngang hàng với các con. Vợ có nghĩa vụ luôn trung thành với chồng. Những người vợ ngoại tình nếu bị bắt quả tang sẽ bị giết tại chỗ cùng người tình hoặc bị giam vào nhà tù kín suất đời, ngược lại nếu người chồng không chung thủy thì cũng không có hậu quả pháp lý.

  • Pháp luật chủ nô quy định những hình phạt rất dã man, tàn bạo

+ Hình phạt trong pháp luật chủ nô có thể coi là nghiêm khắc nhất, dã man tàn bạo nhất. Các biện pháp phổ biến được sử dụng là tử hình (luật Đôracông hình phạt đối với tất cả các tội lớn, nhỏ đều chỉ là tử hình). Việc tử hình cũng được thực hiện dưới những hình thức dã man như: Ném phạm nhân vào vạc dầu, cắt đầu phạm nhân bằng cưa, ném phạm nhân vào lửa, chôn sống ... Ngoài hình phạt tử hình, các biện pháp khác như cắt bỏ các bộ phận của cơ thể phạm nhân như tay, chân, tai, mũi, lưỡi, ngực... hoặc chọc cho mù mắt, đánh dấu vào mặt, cấm kết hôn... cũng được áp dụng đối với người phạm tội.

+ Pháp luật chủ nô còn cho phép tra tấn nhục hình phạm nhân, giết tập thể cả cộng đồng mà trong đó có người phạm tội.

- Pháp luật chủ nô có nhiều quy định liên quan tới nghi lễ tôn giáo, tới đạo đức, luân lý và những quy tắc ứng xử trong gia đình cũng như trong xã hội. Ở nhiều nước, đối tượng, phạm vi và những lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật chưa được xác định rõ ràng.

Có thể bạn quan tâm: Pháp luật vùng sâu vùng xa

3. Hình thức của pháp luật chủ nô


Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử loài người. Khi mới ra đời, nó tồn tại chủ yếu dựa dạng pháp luật không thành văn và chưa hình thành một hệ thống chuẩn mực bền vững. Do vậy, hình thức biểu hiện của chúng cũng rất đa dạng.

Hình thức phổ biến của pháp luật chủ nô là tập quán pháp. Nhà nước chủ nô thừa nhận những tập quán đã và đang tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thủy thành pháp luật và đảm bảo cho chúng được thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Những tập quán được Nhà nước chủ nô duy trì và phát triển thường là những quy tắc xử sự có lợi đối với giai cấp chủ nô và xã hội hoặc là chúng được vận dụng, được áp dụng sao cho có lợi nhiều nhất cho giai cấp chủ nô. (xem thêm về văn bản pháp luật)

Ngoài tập quán pháp ra, các quyết định của các cơ quan nhà nước chủ nô hoặc của cá nhân chủ nô khi giải quyết một trường hợp cụ thể nào đó cũng được thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những trường hợp tương tự.

Cùng với sự phát triển của chữ viết trong xã hội chiếm hữu nô lệ là sự hình thành và phát triển pháp luật thành văn. Nhiều Nhà nước chủ nô đã ban hành các văn bản pháp luật ở nhiều dạng khác nhau và được chép trên các loại vật liệu khác nhau như gỗ, tre, da súc vật ... Thời kỳ đầu, các văn vần pháp luật chủ yếu là sao chép lại một cách có hệ thống những tập quán pháp không thành văn. Tuy nhiên, cũng có những Nhà nước chủ nô đã xây dựng được những bộ luật tổng hợp khá công phu và tương đối hoàn chỉnh. Có thể nêu ra một số bộ luật nổi tiếng còn được biết đến như:

- Bộ luật Hammurapi của Nhà nước chủ nô Babilon thế kỉ thứ XVIII tr.CN. Bộ luật gồm 282 điều quy định về các vấn đề như quyền lực của vua, tổ chức bộ máy nhà nước, lãnh thổ, tài sản, thuế, sở hữu, hôn nhân và gia đình ... Trongbộ luật đã có lời nói đầu và các vấn đề đã được sắp xếp theo một trật tự nhất định.

- Bộ luật Mạnh của Nhà nước chủ nô ấn Độ thế kỷ thứ II tr.CN. Bộ luật gồm 2685 điều chép lại tập quán và các quy định của các thời đai trước.

- Luật Đôracông của Nhà nước chủ nô Hy Lạp năm 621 tr.CN. Đây là đạo luật nổi tiếng hà khắc mà người đương thời cho là nó được viết bằng máu vì tất cả mọi tội lớn nhỏ trong luật này đều có mức án tử hình. Trong luật Đôracông, nguyên tắc "ăn miếng trả miếng" đã bị loại bỏ. Hành vi giết người không còn coi là gây thiệt hại tài sản mà đã được coi là tội phạm. Trong luật cũng đã có sự phân định khái niệm lỗi cố ý và lỗi vô ý.

Luật mười hai bảng của Nhà nước chủ nô La Mã thế kỷ thứ V tr.CN là bộ luật hoàn thiện nhất. Chế định sở hữu tư nhân trong luật này rất phát triển. Theo nhận xét của Ăngghen thì "pháp quyền La Mã là sự biểu hiện pháp lý cổ điển của những điều kiện sinh sống và những sự xung đột của một xã hội, trong đó sở hữu tư nhân thuần tuý thống trị đến nỗi mọi đạo luật sau này không thể đưa vào đó bất cứ một sự hoàn thiện căn bản nào". Luật La Mã có những quy định chính xác về nhiều khái niệm pháp lý như khái niệm chủ thể pháp luật, khái niệm năng lực pháp luật, các vấn đề về sở hữu, hợp đồng, tội phạm và sự trừng phạt, các quy định về thủ tục tố tụng ... Luật La Mã được coi là đạo luật đầu tiên mang ý nghĩa quốc tế của xã hội sản xuất hàng hoá. Nó được coi là "khuôn vàng thước ngọc", được sao chép và được sử dụng ở nhiều nước kể cả các nước phong kiến và tư sản sau này.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình


Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest quaTổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail:[email protected],[email protected].