-->

Phạm tội tổ chức đánh bạc khi nào?

Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

Hỏi: Nhà tôi chuẩn bị tổ chức tân gia ăn mừng nhà mới, vào trước hôm ăn mừng cỗ chính, chồng tôi có mua một bộ bài về để ở cửa sổ, sau đó vào bếp chuẩn bị thức ăn. Một lúc sau công an ập vào bắt tất cả là 05 người đánh bài và chồng tôi (chồng tôi không đánh bài) với số tiền là 980 nghìn đồng. Công an bảo bắt chồng tôi vì tội tổ chức đánh bạc. Đề nghị luật sư tư vấn, chồng tôi có phạm tội tổ chức đánh bạc hay không (trước giờ chồng tôi không phạm tội gì và cũng chưa bị xử phạt hành chính gì cả? (Trần Thị Thơm – Lạng Sơn)

c
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lê Thị Hoàng -Công ty LuậtTNHH Everest - trả lời:

Chúng tôi trích dẫn một số quy định của pháp luật có liên quan để chị tham khảo, như sau:

- Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:a) Có tính chất chuyên nghiệp;b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”

- Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “với quy mô lớn”:a) Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.b) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại... để trợ giúp cho việc đánh bạc;c) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên.
2. Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.
3. “Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” được xác định như sau:a) Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi bất chính lớn.b) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi bất chính rất lớn.c) Thu lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt lớn” (Điều 2)

Như vậy, đối chiếu với quy định viện dẫn ở trên và thông tin chị cung cấp thì chồng chị không phạm tội tổ chức đánh bạc theo Điều 249 Bộ luật hình sự vì: 1. Không phạm tội tổ chức đánh bạc với quy mô lớn theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP; 2. Chưa bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 Bộ luật Hình sự, đồng thời cũng chưa bị kết án về một trong các tội này.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.