-->

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm con không?

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở

Hỏi: Tôi và vợ tôi đã ly hôn, chúng tôi có một đứa con gái hiện giờ con gái đang sống với vợ tôi. Hàng tháng tôi vẫn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đầy đủ, và thường xuyên đến thăm con. Tuy nhiên gần đây vợ tôi không cho tôi tới thăm con gái tôi nữa. Vậy Luật sư cho tôi hỏi vợ tôi làm như vậy có đúng với quy định của pháp luật không? Liệu tôi có thể tiếp tục đến thăm con tôi không? ( Trần Hòe - Long An)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn Luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
"1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.

Theo quy định của pháp luật, bạn có quyền và nghĩa vụ thăm nom con gái bạn mà không ai được cản trở, trừ trường hợp bạn lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con của vợ bạn thì vợ bạn có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bạn.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luậthôn nhân và gia đìnhmà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.