-->

Nghĩa vụ của NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật

Việc NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ mà vi phạm quy định về thời hạn báo trước theo khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động (BLLĐ) là hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ theo Điều 42 BLLĐ.

Hỏi: Tôi làm việc tại một Công ty từ tháng 3.2010. Tháng 12.2014, Công ty thông báo: đã chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) và đã dừng đóng BHXH của tôi từ tháng 6.2014, mặc dù tôi không bị kỷ luật hay vi phạm (côngty vẫn trả lương cho tôi đến tháng 12.2014). Đề nghị Luật sư tư vấn, việc Công ty chấm dứt HĐLĐ đối với tôi có đúng không, quyền lợi của tôi như thế nào (Tiền Minh Tùng, Bến Tre)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Trong thư, ông chưa nêu rõ về thời hạn của các HĐLĐ ông đã ký. Tuy nhiên, việc Công ty chấm dứt HĐLĐ với ông từ tháng 6.2014 nhưng đến tháng 12.2014 mới thông báo cho ông về việc chấm dứt HĐLĐ là vi phạm quy định về thời hạn báo trước theo khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động (BLLĐ). Do đó, căn cứ Điều 41 BLLĐ, đây là hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
Căn cứ Điều 42 BLLĐ, quyền lợi của ông khi Công ty chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật:
(1) Công ty phải nhận ông trở lại làm việc theo HĐLĐ đã giao kết và phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày ông không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ;
(2) Trường hợp ông không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường tại nêu trên, Công ty phải trả trợ cấp thôi việc cho ông.
Căn cứ Điều 48 BLLĐ, mức trợ cấp thôi việc của ông được tính theo quy định mỗi năm làm việc là nửa tháng tiền lương. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 06 tháng liền kề trước khi ông thôi việc. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian ông đã làm việc thực tế cho Công ty trừ đi thời gian ông đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được Công ty chi trả trợ cấp thôi việc.
(3) Trường hợp Công ty không muốn nhận lại ông trở lại làm việc và ông đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường và trợ cấp thôi việc, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ để chấm dứt HĐLĐ;
(4) Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong HĐLĐ mà ông vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường như nêu trên, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung HĐLĐ. Trường hợp này, Công ty còn vi phạm quy định về thời hạn báo trước, do đó, căn cứ vào thời hạn HĐLĐ của ông, Công ty phải bồi thường cho ông một khoản tiền tương ứng với tiền lương của ông trong những ngày không báo trước.


Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.