-->

Ly hôn khi chồng ngoại tình, chia tài sản và quyền nuôi con thực hiện như thế nào?

Đề nghị luật sư tư vấn, giải quyết ly hôn khi chồng ngoại tình, các vấn đề có liên quan về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.

Nội dung yêu cầu của khách hàng tóm tắt như sau: Tôi và chồng tôi kết hôn tháng 03/2015, chúng tôi sinh được một bé trai đến nay đã được 30 tháng tuổi. Gần đây, tôi và chồng tôi thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Tôi phát hiện anh ấy quan hệ với một cô gái khác, thường xuyên không hay về nhà. Nay, tôi cảm thấy cuộc sống của vợ chồng tôi không duy trì được nữa, cuộc sống không hạnh phúc, tôi muốn ly hôn với chồng tôi. Cho tôi hỏi, nếu ly hôn thì sau ly hôn thì ai có quyền nuôi con? Tài sản chung chia như thế nào? (Nguyễn Kim - Thanh Hóa)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Hùng - Phòng Tư vấn pháp luật trực tuyến của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Liên quan tới thắc mắc của chị, chúng tôi đưa ra một số ý kiến pháp lý sơ bộ như sau:

Một là, quy định về quan hệ hôn nhân, quyền yêu cầu giải quyết ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:

“1- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. 2- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. 3- Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”
(Điều 51).

- Về quy định thuận tình ly hôn:

“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”
(Điều 55).

- Ly hôn theo yêu cầu của một bên:

“1- Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. 2- Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. 3- Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia” (Điều 56).

Hai là, về giải quyết tài sản khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.


Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc giải quyết tài sản khi ly hôn tại các điều từ Điều 59 đến Điều 64. Ngoài ra, vấn đề này được Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP:

“1- Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau: (a) Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn; (b) Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

2- Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

3- Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.

4. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia: (a) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng; (b) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. (c) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự; (d) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

5- Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.

6- Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”
(Điều 7).

Ba là, việc nuôi, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

“1- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”
(Điều 81).

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

“1- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”
(Điều 82).

Căn cứ các quy định được trích dẫn trên thì:

Khi chồng ngoại tình, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, chị có thể lưa chọn: (i) thuận tình ly hôn và (ii) ly hôn theo yêu cầu của một bên, theo các quy định tại Điều 55 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (nêu trên).

Trường hợp thứ nhất là thuận tình ly hôn: Chị và chồng đều có yêu cầu giải quyết ly hôn thì sẽ được giải quyết theo Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 về thuận tình ly hôn, thống nhất thỏa thuận về việc ly hôn, chia tài sản, nuôi con.

Trường hợp thứ hai là ly hôn theo yêu cầu của một bên: Nếu một bên đề nghị ly hôn, nhưng bên còn lại không đồng ý ly hôn (chị đồng ý nhưng chồng không đồng ý, hoặc ngược lại), thì bên muốn ly hôn phải có chứng cứ, chứng minh việc vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực hay là bằng chứng về việc ngoại tình… dẫn tới cuộc sống gia đình trầm trọng, không hạnh phúc, không thể kéo dài được nữa theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nếu mà không thỏa thuận được, thì các bên có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, Tòa án sẽ áp dụng nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tại các điều từ Điều 59 đến Điều 64 và hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.

Về vấn đề nuôi con, chăm sóc con sau khi ly hôn, Tòa án sẽ áp dụng Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết. Con của anh, chị, nếu tính đến thời điểm ly hôn nếu dưới 36 tháng tuổi được giao trực tiếp cho người mẹ nuôi dưỡng, cụ thể con của chị mới được 30 tháng tuổi, thì chị (người mẹ) sẽ là trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.