Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên,...
Hỏi: Công ty tôi là công ty cổ phần được cổ phần hóa từ bộ phận doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thuộc công ty A từ tháng 5/2010 (công ty A nắm 51% vốn điều lệ). Đến cuối năm 2014, Công ty A đã thoái hết toàn bộ vốn tại công ty tôi. Có công nhân B làm việc tại bộ phận DNNN và công ty tôi từ tháng 01/2003 đến 10/2010 thì chuyển đến làm việc tại 1 chi nhánh thuộc công ty A.Đến tháng 10/2016, công nhân B chấm dứt hợp đồng lao động(HĐLĐ) tại chi nhánh đó, Công ty A có quyết định chấm dứt HĐLĐ, trong đó yêu cầu công ty tôi phải trả trợ cấp thôi việc cho công nhân B trong thời gian làm việc từ 01/2003 đến 12/2008.Xin hỏi: Công ty A yêu cầu công ty tôi phải trả trợ cấp thôi việc cho công nhân B có đúng không? Nếu công ty tôi phải trả trợ cấp cho công nhân B thì có đòi lại công ty A được không? (Anh Văn - Hải Phòng)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
1. Cơ sở pháp lý:
Hướng dẫn thi hành một số nội dung bộ luật lao động
2. Nội dung tư vấn:
Theo quy định tại điều 48, bộ luật lao động 2012 thì
"1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc"
Như vậy người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc trong các trường hợp:
-Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.
-Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
-Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
- Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.
-Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.
-Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
-Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động
-Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.
-Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã
Căn cứ vào quy định trên thì việc công nhân B được nhận trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ là phù hợp với quy định của pháp luật.
Khoản 3, điều 15, nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số nội dung của bộ luật lao động có quy định:
"Người lao động tiếp tục được sử dụng, người lao động đưa đi đào tạo lại để tiếp tục sử dụng, người lao động được chuyển sang làm việc không trọn thời gian tại doanh nghiệp sau khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản theo phương án sử dụng lao động quy định tại Khoản 1 Điều này, khi chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động kế tiếp có trách nhiệm tính trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại điều 48 đối với thời gian người lao động làm việc thực tế cho mình và trợ cấp thôi việc đối với thời gian người lao động làm việc thực tế tại doanh nghiệp trước khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, kể cả thời gian làm việc tại khu vực nhà nước được tuyển dụng lần cuối vào doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản trước ngày 01 tháng 01 năm 1995".
Tuy nhiên, trong tình huống bạn có trình bày thì công ty của bạn được cổ phần hóa từ một bộ phận thuộc doanh nhiệp nhà nước A và thời gian bắt đầu thực hiện cổ phần hóa là từ tháng 5/2010 đến 2014 mới cổ phần hóa xong. Như vậy, thời gian công nhân B làm việc từ 1/2003 đến 10/2010 không thế coi là thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động kế tiếp vì thời gian này mới bắt đầu tiến hành việc cổ phần hóa và công ty mới chưa được thành lập. Từ 1/2003 đến 10/2010, công nhân B thực tế vẫn làm việc theo hợp đồng cho công ty A và sau đó vẫn tiếp tục làm việc tại chi nhánh của công ty A đến 10/2015 thì mới chấm dứt hợp đồng. Như vậy, việc công ty A yêu cầu công ty bạn trả trợ cấp thôi việc cho công nhân B trong khoảng thời gian từ 1/2003 đến 10/2010 là không phù hợp với các quy định của pháp luật.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận