Công ty Luật TNHH Everest tư vấn về quyền thừa kế của con riêng.
Hỏi: Bố vợ tôi có 2 người vợ 1 người vợ cả có danh nghĩa của pháp luật có 2 người con gái và 1 người con trai. Vợ tôi là con của bà thứ, và không có danh nghĩa của pháp luật. Khi bố mất có để lại di chúc chia cho các con mỗi người 1 miếng đất trong đó có cả người con nuôi của bố cũng có, nhưng vợ chồng tôi được biết tin bố mất, lên tới nơi mọi người đã công bố di chúc xong. Vợ tôi không được biết đến chỉ nghe những người bạn của bố bảo bố có viết di chúc cho vợ chồng tôi 1 miếng đất như mọi người và bảo tôi hỏi bà mẹ cả. Nhưng tôi hỏi bà mẹ cả bảo không cho đất tôi hỏi cho vợ chồng tôi xem di chúc thì bà không biết , vậy liệu ở chính quyền địa phương khi lập di chúc cho bố tôi có phải lưu lại 1 bản di chúc không? Và anh con nuôi cũng được chia tài sản của bố, vậy vợ tôi có được hưởng di sản thừa kế của bố không? (Hoàng An - Hưng Yên)
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn như sau:
"Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng".
Như vậy, UBND xã chỉ ghi chép và lập thành văn bản di chúc, không có sao chép di chúc.
BLDS cũngquy định như sau:
Điều 672Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thủ tục công bố di chúc như sau:
"1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.
2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thoả thuận cử người công bố di chúc.
3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng".
Như vậy, theo nguyên tắc, sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Nếu như bạn chắc chắn mình có tên trong di chúc trên mà mọi người đã cố tình dấu phần tài sản của vợ bạn, thì bạn có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật dân sự như sau:
Điều 645Bộ luật dân sự năm 2005 quy địnhthời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận