Công ty Luật TNHH Everest tư vấn về cách tính số ngày nghỉ phép hàng năm.
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Về số ngày nghỉ hàng năm
Điều 111, điều 112 Bộ luật lao động 2012 quy định về ngày nghỉ hàng năm như sau:
"Điều 111. Nghỉ hằng năm:1. Người lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:a) 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;b) 14 ngày làm việc đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành hoặc lao động chưa thành niên hoặc lao động là người khuyết tật;c) 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt khắc nghiệt theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.".
"Điều 112. Ngày nghỉ hằng năm tăng thêm theo thâm niên làm việc:Cứ 05 năm làm việc cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ luật này được tăng thêm tương ứng 01 ngày.".
Như vậy công ty bạn quy định "Người lao động có đủ 12 tháng làm việc tại Công ty được nghỉ phép hằng năm 12,14 hoặc 16 ngày tùy theo tính chất công việc làm theo danh mục lao động nặng nhọc độc hại, nguy hiểm. Số ngày nghỉ được tăng thêm theo thâm niên cứ mỗi 05 năm tăng thêm 01 ngày." là đúng quy định của pháp luật.
Về lịch nghỉ hàng năm:
Điều 111 Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:
"2. Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động.3. Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.".
Công ty bạn quy định "Lịch nghỉ hàng năm được qui định là những ngày nghỉ thêm trong các dịp lễ tết (nếu có), và mỗi tháng người lao động được nghỉ hàng năm ít nhất 01 ngày theo nhu cầu của người lao động" cũng phù hợp với quy định pháp luật nếu đã tham khảo ý kiến của người lao động và có thông báo trước cho người lao động.
Về thanh toán tiền nghỉ hàng năm những ngày chưa nghỉ
Điều 114 Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:
"Điều 114. Thanh toán tiền lương những ngày chưa nghỉ:1. Người lao động do thôi việc, bị mất việc làm hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ.2. Người lao động có dưới 12 tháng làm việc thì thời gian nghỉ hằng năm được tính theo tỷ lệ tương ứng với số thời gian làm việc. Trường hợp không nghỉ thì được thanh toán bằng tiền.".
Cách quy định thứ nhất:
Việc công ty bạn quy định "Số ngày phép còn lại sẽ đựoc nghỉ hết hoặc thanh toán tiền vào tháng thứ 12 kể từ ngày người lao động bắt đầu vào làm việc tại Công ty. Nếu người lao động muốn gia hạn để nghỉ sau hoặc dồn phép nghỉ chung với phép của năm sau cũng được Công ty chấp thuận" là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Lý do: Khoản 3 điều 111 Bộ luật lao động 2012 quy định người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần. Như vậy, người lao động chỉ có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để 2, 3 năm nghỉ một lần, chứ không thể dồn số ngày phép chưa nghỉ hết của năm nay sang năm sau. Bởi nếu người lao động nghỉ phép từng năm, không gộp chung nhiều năm nghỉ một lần thì hết một năm nếu người lao động chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghỉ (khoản 1, điều 114 Bộ luật lao động 2012).
Cách quy định thứ hai:
"Ngày nghỉ hằng năm phải được giải quyết hết vào tháng 12 hàng năm hoặc chậm nhất là trong quý 1 của năm sau. Số ngày nghỉ hằng năm cho những người làm việc chưa đủ 12 tháng (tính từ ngày vào làm việc đến tháng 12) hoặc tháng trong quý 1 của năm sau và được tính theo cách tính của điều 7, Nghị định 45/2013/NĐ-CP
"Điều 7. Cách tính số ngày nghỉ hằng năm đối với trường hợp làm không đủ năm:Số ngày nghỉ hằng năm theo Khoản 2 Điều 114 của Bộ luật lao động được tính như sau: lấy số ngày nghỉ hằng năm cộng với số ngày được nghỉ tăng thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với số tháng làm việc thực tế trong năm để tính thành số ngày được nghỉ hằng năm; kết quả phép tính lấy tròn số hàng đơn vị, nếu phần thập phân lớn hơn hoặc bằng 0,5 thì làm tròn lên 01 đơn vị."".
Cách quy định này là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cách quy định này lại chưa dự liệu đến trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận nghỉ gộp 2, 3 năm một lần. Cách quy định thứ hai này để toàn diện hơn công ty bạn có thể tham khảo bổ sung theo hướng:
"Ngày nghỉ hằng năm phải được giải quyết hết vào tháng 12 hàng năm hoặc chậm nhất là trong quý 1 của năm sau, trừ trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận nghỉ gộp 02 năm hoặc 03 năm một lần thì ngày nghỉ hàng năm được giải quyết vào thời điểm kết thúc năm thứ 2 hoặc năm thứ ba.
Số ngày nghỉ hằng năm cho những người làm việc chưa đủ 12 tháng (tính từ ngày vào làm việc đến tháng 12) hoặc tháng trong quý 1 của năm sau và được tính theo cách tính của điều 7, Nghị định 45/2013/NĐ-CP
"Điều 7. Cách tính số ngày nghỉ hằng năm đối với trường hợp làm không đủ năm:Số ngày nghỉ hằng năm theo Khoản 2 Điều 114 của Bộ luật lao động được tính như sau: lấy số ngày nghỉ hằng năm cộng với số ngày được nghỉ tăng thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với số tháng làm việc thực tế trong năm để tính thành số ngày được nghỉ hằng năm; kết quả phép tính lấy tròn số hàng đơn vị, nếu phần thập phân lớn hơn hoặc bằng 0,5 thì làm tròn lên 01 đơn vị."
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận