-->

Lập di chúc và làm hợp đồng tặng cho nhà đất cho con?

Người lập di chúc có các quyền sau đây:1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế...

Hỏi: Bố mẹ em có 1 căn nhà đứng tên sở hữu 1 mình bố em. Giấy sở hữu nhà được cấp từ năm 1983 (không phải số đỏ như hiện nay). Em xin được hỏi bố em có thể cho tặng hoặc viết di chúc để lại cho con cái một nửa phần nhà này của bố em không ? Và có thể công chứng được giấy cho tặng hoặc di chúc dựa vào giấy sở hữu nhà của bố em không ? Hay bố em phải làm sổ đỏ rồi mới làm được giấy cho tặng và thừa kế? (Dương Chung - Hải Dương)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất,về việc bố bạn có quyền để di chúc hay tặng cho một nửa mảnh đất không?

- Về tặng cho một phần căn nhà:

Nếu căn nhà này là tài sản chung của bố mẹ bạn thì việc tặng cho một phần căn nhà phải có sự thỏa thuận của bố mẹ bạn vàhợp đồng tặng cho phải có chữ ký của cha mẹ bạn.

Nếu căn nhà này là tài sản riêng của bố bạn thì bố bạn hoàn toàn có quyền tặng cho một phần căn nhà theo quy định tại điều 167, luật đất đai 2013.

- Về di chúc:

Căn cứ vào điều 648, bộ luật dân sự 2005 quy định:

"Điều 648.Quyền của người lập di chúc: Người lập di chúc có các quyền sau đây:1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản."

Như vậy, bố bạn hoàn toàn có quyền lập di chúc để lại một nửa căn nhà là tài sản của bố bạn cho bạn.

Thứ hai,về giấy sở hữu nhà ở.

Căn cứ vào khoản 1, điều 168, luật đất đai 2013 quy định thời điểm được thực hiện quyền của người sử dụng đất như sau:

"Điều 168. Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất:1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận. Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được thực hiện quyền sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất; trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền....."

Như vậy, bố bạn muốn làm hợp đồng tặng cho bạn thì buộc phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theokhoản 2, điều 97, luật đất đai 2013 quy định:"Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã được cấp theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở, pháp luật về xây dựng trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 vẫn có giá trị pháp lý và không phải đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp người đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 có nhu cầu cấp đổi thì được đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này".

Theo quy định trên thì giấy sở hữu nhà ở được cấp 1983 vẫn có giá trị pháp lý. Do đó, bố chị hoàn toàn có thể làm thủ tục tặng cho mảnh đất đó cho bạn mà không phải làm lại sổ đỏ.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.