-->

Kiến thức tổng hợp về hình thức chính thể của nhà nước

Chính thể là hình thức tổ chức Nhà nước do Hiến pháp định ra thông qua việc quy định của Hiến pháp về cách thức thành lập các cơ quan Nhà nước ở trung ương và quan hệ giữa chúng với nhau, và mức độ tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực Nhà nước.

Trong khoa học pháp lý cũng như các khoa học xã hội khác nhiều khi khái niệm “bản chất nhà nước”, "nguồn gốc nhà nước" rất gần với khái niệm “chính thể ”. Vì các thuật ngữ này đều được dùng để trả lời cho câu hỏi: Nhà nước là của ai? Mục đích của nhà nước là gì ?
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198


1. Lý thuyết tổng quát về chính thể

Chính thể là một vấn đề quan trọng bậc nhất của mỗi một hiến văn. Điều này có nghĩa là Hiến pháp có nhiệm vụ phải quy định chính thể của Nhà nước mình. Chính thể là hình thức tổ chức Nhà nước do Hiến pháp định ra thông qua việc quy định của Hiến pháp về cách thức thành lập các cơ quan Nhà nước ở trung ương và quan hệ giữa chúng với nhau, và mức độ tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực Nhà nước.

Trong khoa học pháp lý cũng như các khoa học xã hội khác nhiều khi khái niệm “bản chất nhà nước”, "nguồn gốc nhà nước" rất gần với khái niệm “chính thể ”. Vì các thuật ngữ này đều được dùng để trả lời cho câu hỏi: Nhà nước là của ai? Mục đích của nhà nước là gì ?

Khi xác định chính thể, trước hết người ta thường dựa vào cách thức thành lập ra nguyên thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Sau đấy đến cách thức tổ chức và mối quan hệ các cơ quan Nhà nước khác, mà chủ yếu là của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Mức độ tham gia của người dân vào việc tổ chức quyền lực nhà nước cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xác định chính thể.

Trong lịch sử phát triển của việc tổ chức quyền lực Nhà nước, có hai hình thức cơ bản xác định chính thể của Nhà nước dựa trên cách thức thành lập nên chức vị nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu Nhà nước. Đó là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.1 Nếu như trong chính thể quân chủ, nguyên thủ quốc gia đươc thành lập bằng con đường truyền ngôi thế tập (thường được gọi là Vua, Nư Hoàng, Thiên Hoàng…), thì trong chính thể cộng hoà nguyên thủ quốc gia được thành lập bằng con đường bầu cử mà ra, có thể do dân hoặc cơ quan đại diện của dân bầu ra, và thường được gọi là Tổng thống, Chủ tịch nước…

Chính thể quân chủ là mô hình tổ chức Nhà nước tiêu biểu của xã hội phong kiến. Nhà vua, người đứng đầu Nhà nước không do bầu cử mà do thế tập, truyền ngôi. Các thần dân, những thành viên sống trong lãnh thổ quốc gia đó, là những người không có quyền tham gia vào các công việc Nhà nước.

Thuật ngữ “quân chủ” có nguồn gốc Hy Lạp là “Monosarchy” được ghép từ hai từ “Monos” có nghĩa là một, và “archy” có nghĩa là chính quyền. Tức là chính quyền nằm trong tay một người. Đây là mô hình phổ quát của chế độ chính trị phong kiến, và trước đó là của chế độ chiếm hữu nô lệ. Mô hình chính quyền nhà nước này không được quy định văn bản, mà sau này được gọi là hiến pháp.

Mô hình quan chủ thường được tổ chức thành quân chủ tuyệt đối của Nhà nước hoàn toàn theo chế độ phong kiến. Quân chủ hạn chế là mô hình tiến bộ hơn: quyền lực thần bí, truyền ngôi của nhà Vua bị hạn chế, nhường quyền lực cho các thiết chế khác của Nhà nước (Quốc hội, Nghị viện, Chính phủ). Hiến pháp là văn bản thể hiện sự hạn chế này. Như vậy, mô hình quân chủ hạn chế còn được gọi là quân chủ lập hiến. Một trong mô hình phổ biến hiện nay của quân chủ lập hiến là quân chủ đại nghị (Anh, Nhật...).

Thuật ngữ “cộng hoà” có gốc là “Respublica est res populi” có nghĩa Nhà nước là công việc của nhân dân. Mô hình tổ chức Nhà nước này cũng có từ thời cổ của La Mã - Hy Lạp. Nhưng sang đến chế độ chính trị phong kiến nó bị loại dần, mãi đến chế độ chính trị tư bản mới được trở thành mô hình phổ biến.

Chế độ chính trị cộng hoà còn được gọi là chế độ chính trị dân chủ. Dân chủ cũng là thuật ngữ có nguồn gốc từ cổ Hy Lạp, “Democrat” có nghĩa là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Khái niệm Nhà nước thuộc về nhân dân trong luật Hiến pháp còn được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm quyền lực nhân dân. Thuật ngữ “dân chủ” có nguồn gốc từ thời cổ Hy lạp - democratie. Nó được ghép từ hai chữ “Demos” có nghĩa là nhân dân và “Kratos” có nghĩa là chính quyền. “Dân chủ” có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Như vậy ngay từ khi mới ra đời dân chủ có nghĩa là chính quyền thuộc về nhân dân.

Chính thể cộng hoà là mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội mà ở đó nguyên thủ quốc gia do bầu cử mà ra - nhân dân ít nhiều có quyền lợi, và được tham gia vào công cuộc quản lý Nhà nước (công việc chính trị). Các nhà nước quân chủ chuyên chế không thể có quyền lực nhân dân. Ở các nhà nước đó quyền lực nằm trong tay Hoàng đế, người được coi là thay trời, thay chúa trị vì nhân dân. Khi cách mạng dân chủ tư sản ra đời, giai cấp tư sản đã thay thế chính thể quân chủ bằng chính thể cộng hoà và để chống lại chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ phong kiến cổ hủ. Bằng các Hiến pháp của mình giai cấp tư sản đã ghi nhận quyền lực của nhân dân, chủ quyền của nhân dân. Việc quy định quyền lực nhân dân của Nhà nước đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tư tưởng dân chủ của nhân loại.

Trong chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia do bầu cử mà ra. Trong cách thức tổ chức Nhà nước này, nhân dân ở mức độ khác nhau là chủ thể được quyền tham gia vào các công việc Nhà nước, được Hiến pháp tuyên bố quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

Mô hình tổ chức quyền lực của chế độ dân chủ, hay có thể còn được gọi là cộng hòa rất phức tạp hơn so với chế độ chính trị quân chủ. Sự phức tạp do quyền lực nhà nước do nhiều người thực hiện gây nên. Chính vì phải đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân nên phải có văn bản quy định. Đó là Hiến pháp. Nên không có một nhà nước nào được gọi là dân chủ hay cộng hòa mà lại không có hiến pháp. Mô thức tổ chức Nhà nước theo chính thể cộng hoà thường chia làm hai loại: Cộng hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống.
Phân tích dấu hiệu chính thể cộng hoà đại nghị, một số nhà luật học cho rằng, chính thể cộng hoà đại nghị là chính thể được tổ chức ở những nhà nước có nguyên thủ quốc gia do nghị viện bâù ra, chính phủ do thủ tướng đứng đầu không chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia, mà chịu trách nhiệm trước nghị viện.(1) Bên cạnh việc đồng ý với những dấu hiệu trên, có tác giả còn cho rằng, một số dấu hiệu không thể thiéu được của chính thể này, đó là việc tuyen bố nguyên tắc quyền lực tối cao của nghị viện thành chế độ đại nghị; có chức danh thủ tướng và sự tham gia một cách hình thức của nguyên thủ quốc gia vào việc thành lập chính phủ; nguyên thủ quốc gia được hiến pháp quy định rất nhiều quyền hạn, nhưng trên thực tế không trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước.(2) Đa số các chính thể cộng hoà ở Châu Âu là cộng hoà đại nghị.

Tổng thống cộng hoà là một loại mô hình chính thể Nhà nước phổ biến thứ hai, mà ở đó hành pháp và lập pháp không chịu trách nhiệm lẫn nhau. Lập pháp cũng do dân bầu và hành pháp cũng do dân bầu. Với cách thức tổ chức này, Nguyên thủ quốc gia không những là người đứng đầu Nhà nước mà còn đứng đầu hành pháp. Trên thực tế quyền lực của tổng thống (Nguyên thủ quốc gia) hầu như một ông Vua, nhưng không do thế tập truyền ngôi mà do bầu cử. Chính thể của Mỹ là điển hình cho loại hình chính thể này.

Ngoài ra, có một mô hình chính thể kết hợp những đặc điểm của cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị, được gọi là công hoà lương tính. Chính thể này có những đặc điểm như: tổng thống do dân bầu (trực tiếp hoặc gián tiếp ); Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người lãnh đạo nội các; Nội các do Thủ tướng đứng đầu, do nghị viện thành lập, vừa chịu trách nhiệm trước nghị viện vừa chịu trách nhiệm trước Tổng thống; tổng thống có quyền giảI tán nghị viện…Chính thể ở Pháp, và Nga là điển hình cho loại hình cộng hoà lưỡng tính.

Trong tất cả các hình thức tổ chức Nhà nước nêu trên thì cộng hoà đại nghị là dân chủ hơn cả. Vì vậy với tư cách là Nhà nước tiên tiến hơn, việc tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩ theo một loại hình của kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mang nhiều dấu ấn dân chủ của cộng hoà đại nghị. Nhưng việc tổ chức ấy vẫn có những đặc điểm riêng thể hiện việc tiếp thụ có chọn lọc những dấu hiệu tiến bộ của những Nhà nước cộng hoà kể cả cộng hoà tổng thống.

Chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa, xét tổng quát, có đặc điểm là: Quốc Hội cơ quan do nhân dân trực tiếp ( hoặc gián tiếp) bầu ra, có nhiều quyền lực - quyền định ra các khuôn mẫu cho mọi hành vi quản lý nhà nước, hành vi hoạt động khác của xã hội và của công dân thông qua chức năng lập pháp, và có quyền giám sát việc hoạt động của mọi cơ quan Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước, được thành lập dựa trên cơ sở của lập pháp (tức là do lập pháp thành lập ra) và phải chịu trách nhiệm trước lập pháp (Quốc Hội).


2. Chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp

Lịch sử Nhà nước Việt Nam có chiều dài hơn mấy nghìn năm kể từ khi có Nhà nước; về cơ bản nhân dân chúng ta sống dưới chế độ chính trị quân chủ phong kiến với hơn 1000 năm lệ thuộc phong kiến phương bắc (Trung Quốc) và sau đấy 100 năm dưới chế độ thực dân phong kiến cũng không kém phần chuyên chế. Mãi đến Cách mạng tháng Tám thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân ta mới được sống dưới chế độ cộng hoà.

Do điều kiện lịch sử của Nhà nước ta với hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần một trăm năm nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, rồi gần một thế kỷ dưói gót giày của đế quốc Mỹ, việc tổ chức Nhà nước ta phải gắn liền với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và cũng chỉ dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước chúng ta mới có cơ sở chấm dứt hoàn toàn chế độ lệ thuộc trước đây. Vì vậy, việc tổ chức Nhà nước ta luôn luôn gắn liền với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, với chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa.

Kể từ khi có Nhà nước Việt Nam mới, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam luôn luôn thể hiện bản chất giai cấp vì nhân dân lao động của mình. Bản chất của quyền lực Nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn được quy định thành văn trong các Hiến pháp. Bản chất này luôn được quy định trang trọng trong những điều đầu tiên của mỗi một bản hiến văn, và trở thành một trong tiêu chí cơ bản để khẳng định chính thể cộng hoà của mình.

Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định; “Nước Việt Nam là Nước dân chủ cộng hoà”. Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2/9/1945 cho đến ngày nay quyền lực nhân dân bao giờ cũng là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc xây dựng chế độ chính trị của Nhà nước ta. Quyền lực của nhân dân đó là bản chất của Nhà nước dân chủ nói chung và của Nhà nước ta nói riêng. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam nguyên tắc quyền lực nhân dân bao giờ cũng được trang trọng ghi ở trang đầu của hiến pháp. Điều 1 Hiến pháp 1946 ghi:

“Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Theo định nghĩa của Hồ Chủ tịch, chính chế độ Dân chủ cộng hòa là chế độ Dân chủ nhân dân. Theo, Từ điển Bách khoa Việt nam:

“Chế độ dân chủ nhân dân là chế độ chính trị xã hội xuất hiện từ những năm 40 của thế kỷ 20 ở những nước xã hội chủ nghĩa hoặc ở những nước có khunh hương xã hội chủ nghĩa, kết quả của đấu tranh giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc và xóa bỏ áp bức bóc lột của thực dân, địa chủ phong kiến, dựa trên cơ sở liên minh công - nông - trí thứ.

Đây là hình thức tổ chức liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với các từng lớp xã hội rộng rãi bao gồm nhiều tổ chức chính trị - xã hội, trên cơ sở cương lĩnh chung dưới sự lãnh đạo đảng của giai cấp công nhân, đấu tranh chốn chủ nghĩa đế quốc, chống chế độ phong kiến, thực hiện dân chủ. Chế độ dân chủ nhân dân đảm bảo cho đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng vô sản và thự hiện nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý nhà nước…Thiết lập chế độ dân chủ nhân dân có nghĩa là lật đổ ách thống trị của tư bản đế quốc và địa chủ phong kiến, chính quyền về tay nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Cơ sở xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam

Trong lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học có một thuật ngữ rất gần với bản chất và chính thể của nhà nước là cơ sở xã hội của Nhà nước. Cơ sở xã hội của nhà nước chính trong ngành khoa học này được hiểu là cơ sở giai cấp của nhà nước, bản chất giai cấp nhà nước. Nhà nước được hình thành được phát triển dựa trên cơ sở của giai cấp nào. Cơ sở xã hội của Nhà nước phụ thuộc vào cơ cấu xã hội. Nhà nước dựa vào giai cấp nào để tồn tại và phát triển. Vì lẽ đó, chế độ Nhà nước gắn liền cơ sở xã hội của Nhà nước. Cơ sở xã hội nhà nước được hiểu là cơ sở giai cấp của nhà nước, hoặc liên minh giai cấp của nhà nước. Tính giai cấp của nhà nước và liên minh của các giai cấp có thể được thay đổi theo quá trình phát triển của xã hội và Nhà nước. Nhưng ở mọi nhà nước dân chủ , tức là nhà nước có hiến pháp thành văn hiện đại đều được quy định trong hiến pháp thành văn của mình là nhà nước của nhân dân. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tức là kể từ khi có nhà nước dân chủ tư sản. Nhưng khái niệm nhân dân của chế độ dân chủ tư sản không hoàn toàn giống như của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khái niệm “dân” của chế độ dân chủ tư sản thuở ban đầu như của Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ năm 1787 chỉ bao gồm những người đàn ông da trắng, mãi đến gần 200 năm sau mới có thêm những người đàn bà ở trong khái niệm này.

Nhưng với nhà nước kiểu mới của Việt Nam thì lại khác. Ngay từ những năm đầu của chính quyền nhân dân cơ sở xã hội của Nhà nước lúc bấy giờ đã bao gồm toàn thể nhân dân Việt nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo (Điều 1 Hiến pháp 1946). Khi bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản có sơ sở xã hội (nền tảng) là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo (Lời nói đầu Hiến pháp 1959). Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước chuyên chính vô sản tuyên bố người có chủ quyền Nhà nước là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác. Còn cơ sở xã hội của nó (nòng cốt) là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo (Điều 3 Hiến pháp 1980). Đó là nhà nước của chính thể cộng hòa của tất cả mọi người dân lao động. Mọi người dân đều có quyền tham gia vào việc tổ chức hoạt động của chính quyền nhà nước bằng nhiều hình thức khác nhau.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt nam (6/1991) đề ra việc lấy liên minh giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Hiến pháp 1992 tuyên bố: "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" (Điều 2).

Giai cấp công nhân ở nước ta tuy còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 15%) song do tính tổ chức kỷ luật cao, tính cách mạng triệt để, tính tập thể cao nên chiếm được địa vị chủ chốt trong xã hội là giai cấp lãnh đạo xã hội. Các giai cấp khác ủng hộ và đi theo lập trường của giai cấp công nhân. Với nền công nghiệp ngày càng phát triển thì số lượng công nhân ngày càng tăng vị trí lãnh đạo cuả nó ngày càng được củng cố. Nó còn được củng cố bởi sự phát triển văn hoá, trình độ giáo dục và tính tích cực chính trị trong giai cấp công nhân ngày càng được tăng cường.

Giai cấp nông dân chiếm hơn 80% dân số. Do kết quả của công cuộc hợp tác hoá nên hầu hết nông dân đã đi vào con đường làm ăn tập thể. Liên minh công nông được thắt chặt. Giai cấp nông dân ngày càng gần gũi với giai cấp công nhân.

Mặc dù hiện nay, ở nông thôn đang diễn ra những thay đổi. Sự phân hoá nghề nghiệp, giàu nghèo đang diễn ra rõ nét: có nông dân tập thể - hộ nhận khoán, nông dân cá thể chủ trang trại, chủ kinh doanh đấu thầu. Tuy vậy những nhóm người này tìm thấy lợi ích của mình trong chính sách đổi mới do Đảng của giai cấp công nhân khởi xướng và vẫn sát cánh với giai cấp công nhân hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hôị. Sự phát triển sức sản xuất trong nông nghiệp đặc biệt là quá trình điện khí hoá, công nghiệp hoá, nông nghiệp đang triển khai mạnh mẽ, đang làm thay đổi rõ rệt hình ảnh xã hội của nông thôn. Tất cả những cái đó củng cố cho mối liên minh công nông thêm bền vững.

Tầng lớp trí thức có vai trò ngày càng quan trọng. Trong xã hội ta tầng lớp trí thức sinh ra từ nhân dân lao động, hoàn toàn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Trong các cuộc cách mạng trước đây vai trò của giới trí thức được khẳng định và ngày càng được tăng cường trong giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng có tác động mạnh mẽ và toàn diện đến đời sống của dân tộc, đến quá trình cách mạng cải biến xã hội thì chỉ liên minh công nông là chưa đủ. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công nông không được nâng cao kiến thức và không dần dần được trí thức hoá thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tầng lớp trí thức đã được xác định là bộ phận cấu thành quan trọng trong cơ sở của xã hội Nhà nước ta. Với chính sách phát triển khoa học kỹ thuật, chính sách phát triển văn hoá và giáo dục đúng đắn, đội ngũ trí thức sẽ ngày càng đông đảo.

Xây dựng giai cấp nông dân về mọi mặt để xứng đáng là một lực lượng cơ bản trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá; Đào tạo bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước - đó là những quan điểm lớn về củng cố và xây dựng cơ sở xã hội của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay được đề cập trong Cương lĩnh. Bên cạnh đó Đảng chủ trương quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của tầng lớp dân cư khác vì sự nghiệp "ích nước, lợi nhà".

Cơ sơ chính trị của chế độ dân chủ nhân dân là những cơ quan do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp bỏ phiếu kín. Sau khi thiết lập, chính quyền dân chủ nhân dân tập trung nỗ lực vào khắc phục những hậu quả do ách thống trị của đế quốc – phong kiến để lại, đảm bảo dân chủ hóa rộng rãi trong các lĩnh vực xã hội, thực hiện cách mạng ruộng đất, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, tiến dần len chủ nghĩa xã hội. ”

Điều 4 Hiến pháp năm 1959, một mặt ghi nhận quyền lực thuộc về nhân dân, mặt khác quy định cả hình thức thực hiện quyền lực nhân dân thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện của nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Điều 6, Hiến pháp năm 1980, Điều 2 và Điều 6 Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên nguyên tắc đó trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Như vậy chúng ta thấy rằng tuy về hình thức Nhà nước thay đổi từ chính thể Cộng hoà Dân chủ nhân dân (Hiến pháp 1946, Hiến pháp năm 1959) sang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992) nhưng bản chất quyền lực thuộc về nhân dân, nguyên tắc quyền lực nhân dân, chỉ hoàn thiện thêm chứ không thay đổi.

Nội dung cụ thể của quyền lực nhân dân là gì? Quyền lực nhân dân được thực hiện dưới những hình thức nào? Quyền lực nhân dân là bản chất của Nhà nước dân chủ. Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân (thể hiện trong Điều 2 Hiến pháp năm1992) có nghĩa là tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân Việt Nam. Quyền lực Nhà nước không thể thuộc về một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hay một nhóm người nào. Quyền lực Nhà nước phải hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân, trí thức. Nhân dân là người chủ duy nhất toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần của nhà nước. Nhân dân có toàn quyền quản lý tất cả các công việc của Nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến vận mệnh quốc gia đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng của toàn thể dân tộc. Nhân dân có quyền tự do thể hiện ý chí của mình và thông qua các đại biểu của mình biến ý chí đó thành ý chí Nhà nước, thành quy phạm pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện.

Hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân ở nước Việt Nam là hình thức dân chủ đại diện. Đây là hình thức nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan đại diện của mình đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thay mặt cho nhân dân cả nước giải quyết những công việc quan trọng nhất của nước nhà. Đó là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, quyết định kế hoạch Nhà nước, quyết định ngân sách Nhà nước, thành lập các cơ quan quan trọng nhất của Nhà nước, quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình, quy định sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế v.v..

Như vậy, thông qua Quốc hội cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình, nhân dân làm chủ đất nước. Ở các địa phương nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương đó là Hội đồng nhân dân các cấp. Thông qua Hội đồng nhân dân các cấp, quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về mọi mặt, đảm bảo phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương, và hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước cấp trên giao cho.

Ngoài hình thức dân chủ đại diện nhân dân lao động còn thực hiện quyền lực của mình dưới hình thức dân chủ trực tiếp. Đó là việc nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình, khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực Nhà nước trung ương và địa phương và có quyền bãi miễn các đại biểu đó khi họ tỏ ra không xứng đáng với danh hiệu đại biểu. Các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân phải báo cáo công việc của mình trước các cử tri.

Muốn đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân chúng ta phải coi trọng cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Hai hình thức này bổ sung cho nhau, xem nhẹ một hình thức nào cũng sẽ làm hạn chế quyền lực của nhân dân.

Theo Hiến pháp năm 1946, chính thể của Nhà nước ta là Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Đây là một loại hình Nhà nước có tính chất chung cho mọi xã hội từ thực dân phong kiến chuyển sang chế độ tư sản- một loại hình tổ chức Nhà nước muốn đoạn tuyệt hoàn toàn chế độ truyền ngôi, thế tập, với quyền lực là thần bí, nhân dân là các thần dân, không có quyền tham gia vào việc tổ chức quyền lực Nhà nước; ®ồng thời muốn tranh thủ mọi lực lượng trong và ngoài nước, chống lại sự phụ thuộc vào đế quốc thực dân, giành độc lập cho dân tộc.

Theo Hiến pháp này hình thức Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nhiều dấu ấn của cộng hoà đại nghị, bởi vì ở đây Quốc hội (Nghị viện nhân dân) được hiến văn quy định là cơ quan Nhà nước cao nhất. Chính phủ được thành lập dựa trên cơ sở của Quốc hội. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội chỉ hoạt động khi vẫn còn Quốc hội tín nhiệm. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của chính thể cộng hoà đại nghị. Nhưng, điểm khác hình thức tổ chức cộng hoà đại nghị ở chỗ, trong cơ cấu tổ chức Nhà nước của Hiến pháp 1946 có chế định Nguyên thủ quốc gia với một quyền năng rất lớn, không khác nào như một tổng thống trong chính thể cộng hoà tổng thống. Chủ tịch nước theo Hiến pháp này không những là Nguyên thủ quốc gia, mà còn là người trực tiếp lãnh đạo bộ máy hành pháp. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, mặc dù được nghị viện bầu ra, nhưng không chịu trách nhiệm trước nghị viện, trừ tội phản bội Tổ quốc. Đó là một trong những đặc điểm cơ bản của chính thể đại nghị. Trong thời đại dân chủ nếu như của trong chính thể đại nghị kể cả của loại hình quân chủ lẫn của cộng hòa đều được giải thích rằng, vì nhà Vua không có thực quyền, nên không phải gánh vác nghĩa vụ, thì của nhà nước chúng ta trong một điều kiện hoàn cảnh “nước mất, nhà tan, ngàn cân treo trên sợi tóc”, thì nguyên thủ quốc gia - người đứng đầu nhà nước cần phải thoát lý khỏi những trách nhiệm dân sự, hình sự để có những quyết sách táo bạo có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Vì vậy từ những đặc điểm nêu trên có thể kết luận rằng, chính thể của nhà nước theo Hiến pháp 1946, gần giống như chính thể cộng hoà lưỡng tính, như Cộng hoà Pháp hiện nay. Nhưng điểm đáng nói rằng, mỗi khi phân tích hay dẫn chứng về mô hình chính thể lưỡng tính người ta đều dẫn Hiến pháp của Pháp năm 1958 làm minh chứng, mà không thấy rằng mô hình đó còn có trước tõ Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Có lẽ nguyên nhân nằm ở chỗ: Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam chưa có điều kiện công bố cho nhân dân thực hiện, thì nước ta đã phải bắt tay vào tập trung cho cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp.

Sang đến Hiến pháp năm 1959, mặc dù tên gọi của chính thể Nhà nước ta không thay đổi vẫn là Viẹt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng những phần mang đặc điểm của cộng hoà tổng thống bớt đi. Điều này được thể hiện bằng việc quy định: Nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước) không còn trực tiếp là người đứng đầu nhà nước đồng thời là người trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp, mà nghiêng về chức năng tượng trưng cho sự bền vững, thống nhất của dân tộc, như của những nguyên thủ quốc gia của các chính thể cộng hoà đại nghị và quân chủ đại nghị: chính thức hoá các quyết định của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hoặc của Hội đồng Chính phủ. Điều 63 của Hiến pháp 1959 quy định:

“Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh, bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tuớng, Phó Thủ tướng, các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Quốc phòng, công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá, tặng thưởng huân chương, và danh hiệu vinh dự Nhà nước, tuyên bố tình trạng chiến tranh, tuyên bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.”

Chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hoà khác với chính thể cộng hoà đại nghị ở chỗ việc tổ chức quyền lực Nhà nước được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (hiện nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Sự lãnh đạo này được nêu rõ trong “Lời nói đầu” của Hiến pháp. Mục đích của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chính thể của Nhà nước Việt Nam của Hiến pháp 1980 là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, về cơ bản tổ chức quyền lực Nhà nước so với mô hình của Nhà nước Hiến pháp năm 1959 không có thay đổi cơ bản. Chỉ có một điều khác duy nhất, những đặc điểm của mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây không có điều kiện bộc lộ, thì bây giờ có đầy đủ cơ sở cho việc tuyên bố. Quyền lực Nhà nước vẫn được khẳng định thuộc về nhân dân, nhưng Nhà nước có bản chất chuyên chính vô sản, bảo vệ và phát triển hai loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Quyền lực Nhà nước được tập trung cho Quốc Hội. Quốc Hội có quyền lập pháp, lập hiến và thành lập ra các cơ quan Nhà nước khác. Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do Quốc hội bầu ra và phải báo cáo trước Quốc hội.

Với cơ chế tập thể lãnh đạo, Nguyên thủ quốc gia không phải là một cá nhân mà do Hội đồng Nhà nước được Quốc Hội bầu ra, đảm nhiệm. Hội đồng Nhà nước không những là nguyên thủ quốc gia tập thể mà còn là cơ quan hoạt động cao nhất thường xuyên của Quốc Hội. Toàn bộ hoạt động và tổ chức Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin có mục đích tôn chỉ xây dựng XHCN tiến lên CNCS. Cách thức tổ chức Nhà nước theo Hiến pháp 1980 thể hiện cơ chế tập trung, bao cấp, mang nhiều chủ quan, nóng vội, đã làm cho nền kinh tế - xã hội Việt Nam bị kìm hãm. Để khắc phục tình trạng khủng hoảng này, Đảng đã đề xướng công cuộc đổi mới, nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, mà hệ quả của công cuộc đổi mới này về mặt pháp lý là sự ra đời của Hiến pháp 1992.

Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198


3. Chính thể Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp hiện hành

Chính thể Nhà nước Việt Nam theo quy định của Hiến pháp năm 1992 vẫn là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Việc giữ nguyên mô hình tổ chức về mặt tên gọi cũng là sự thể hiện tinh thần đổi mới chính trị chậm chắc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khi Quốc Hội thảo luận về vấn đề này không ít có ý kiến muốn từ bỏ tên gọi này. Nhưng Quốc Hội với đa số phiếu tuyệt đối của mình vẫn quyết định giữ nguyên tên gọi của Nhà nước Việt Nam là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù về tên gọi chính thể vẫn giữ nguyên nhưng hình thức biểu hiện có một số thay đổi đáng kể. Những thay đổi này là do cả quá trình nhận thức lại chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Khác với Hiến pháp năm 1980, việc tổ chức quyền lực Nhà nước của Hiến pháp năm 1992 không có mục đích xoá bỏ hình thức sở hữu tư nhân, mà ngược lại thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nó. Đây là nội dung thay đổi quan trọng bậc nhận thể hiện nhận thức mới của Đảng và Nhà nước ta trên con đường quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về cơ cấu tổ chức Nhà nước vẫn theo nguyên tắc tập quyền mọi quyền lực Nhà nước tập trung vào Quốc Hội, nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan. Quốc Hội không như trước đây được quyền làm tất cả ít nhất là về mặt nhận thức, thì bây giờ tập trung vào công việc lập pháp. Hội đồng Nhà nước được tách ra làm hai cơ quan độc lập theo chức năng của chúng là Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và Chủ tịch nước. Hội đồng Bộ trưởng được đổi thành Chính Phủ. Nếu như trước đây việc tổ chức và chế độ làm việc của Nhà nước quá sa đà vào cơ chế lãnh đạo tập thể, thì ngày nay cần phải tính thêm và tăng cường sự chịu trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ, và của các thành viên khác về những phần việc được phân công. (Xem chi tiết Hình thức nhà nước Việt Nam)

Như những vấn đề về được phân tích ở phần trên, chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa bên cạnh những điểm chung với chính thể cộng hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống, vẫn có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này vừa thể hiện cách thức tổ chức nhà nước Việt Nam nói riêng và của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung:

Thứ nhất, Chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua Hiến pháp khẳng định rõ việc tổ chức quyền lực Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, khác với chính thể của các Nhà nước tư bản đặt dưới sự lãnh đạo của đảng giai cấp tư sản. Việc xây dựng một xã hội không có ngưòi bóc lột người, từ xã hội phong kiến, thực dân, không thể khác hơn nếu không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Đảng có nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản phải lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh việc tổ chức hoạt động của các cơ quan hợp thành hệ thống Nhà nước, theo pháp luật, phải dựa trên những đường lối, chính sách của Đảng.

Trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Là nhân tố chủ yếu và vận động nhân dân làm nên những thắng lợi huy hoàng, viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 - 2 - 1930, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đào tạo và rèn luyện. “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Mới mười lăm tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng tháng Tám thành công thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ đó Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ đem lại hoà bình, độc lập, tự do cho dân tộc. Hiện nay Đảng đang lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng “một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”.

Khắc phục những sai lầm trong quản lý kinh tế trước đây do nóng vội, chủ quan, duy ý chí, Đảng ta đã chủ trương đổi mới và đã thu được những thắng lợi quan trọng, đặc biệt là sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không những là một thực tế khách quan mà nó còn được thể chế hoá trong Điều 4 Hiến pháp năm1980 và trong Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.Như vậy sự lãnh đạo của Đảng đã được pháp luật hoá.

Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng không phải nhờ thế sự thể chế hoá thành quy phạm pháp luật, Đảng ta mới giữ được quyền lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng ta đã lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho đến ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, nhân dân chúng ta mới có thể thoát khỏi cuộc sống nô lệ của những người thuộc dân phụ thuộc vào sự áp bức của đế quốc thực dân. Sau cuộc dấu tranh giải phóng dân tộc là công cuộc xây dựng đất nước, từng bước thoát khỏi đói nghèo, sánh vai cùng các nước khác trên thế giới. Công cuộc xây dựng đất nước này cũng đang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Không những thế qua các cuộc bầu cử Quốc Hội, cơ quan đại diện cao nhất quyền lực nhà nước nhân dân cả nước luôn luôn bỏ phiếu cho những người ứng cử viên của Đảng Cộng sản. Tới hơn 90 % tổng số đại biểu Quốc Hội được nhân dân bầu ra là người của Đảng Cộng sản. Nhân dân Việt bỏ phiếu cho người của Đảng Cộng sản cũng chính là việc nhân dân Việt Nam tán thành với đường lối chính sách của Đảng Cộng sản. Chính vì lẽ đó Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, Đảng cầm quyền lên lẽ đương nhiên cũng giống như các đảng cầm quyền khác trên thế giới, được quyền đứng ra thành lập Chính phủ. Và người đứng đầu Chính phủ là một trong những hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng.

Việc quy định mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là hết sức cần thiết. Quy định này phủ định quan điểm của một số người cho rằng “Đảng cầm quyền”, có nghĩa là Đảng quyết định trực tiếp mọi việc của Nhà nước, có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của Đảng thay cho pháp luật Nhà nước, cơ quan Đảng là cơ quan cấp trên của Nhà nước. Muốn xây dựng một xã hội có trật tự pháp luật, có pháp chế. Các tổ chức của Đảng, mọi Đảng viên phải gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Nội dung cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được Đại hội VI của Đảng vạch ra bao gồm các mặt sau đây:

- Đảng đề ra đường lối, chủ trương chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất định.

- Đảng vạch ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, một Nhà nước có bộ máy Nhà nước chính quy, quy chế làm việc khoa học với đội ngũ làm việc có năng lực tổ chức và quản lý hết lòng vì dân.

- Đảng phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những Đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan Nhà nước để qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn của Nhà nước bố trí vào công tác trong các cơ quan Nhà nước.

- Đảng giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu tập hợp quần chúng, giáo dục, động viên họ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
- Đảng kiểm tra Đảng viên và các tổ chức của Đảng trong các cơ quan tổ chức Nhà nước trong việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, đồng thời theo dõi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, phát hiện những lệch lạc, sai lầm trong chỉ đạo, quản lý để uốn nắn, tiến hành tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ xung và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là sự lãnh đạo chính trị mang tính chất định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước có thể độc lập tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ viên chức, hoạt động đúng chức năng, quản lý, điều hành bằng những công cụ, biện pháp của Nhà nước.

Đảng lãnh đạo Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước hoạt động theo đúng chức năng của nó để quản lý kinh tế - xã hội có hiệu quả cao nhất. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ ở cấp Trung ương mà còn thể hiện ở cấp địa phương, thể hiện trong mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức Đảng với cơ quan, thủ trưởng các đơn vị, tổ chức cơ sở.

Để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta đã xây dựng cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đó là những phương hướng lớn cho sự phát triển kimh tế - văn hoá - xã hội những quan điểm cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại. Cương lĩnh, chiến lược, đường lối đúng đắn khoa học là điều kiện cơ bản để Đảng phát huy được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Muốn cho cương lĩnh và chiến lược đúng đắn, khoa học thì chúng phải là sản phẩm của toàn bộ hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cách mạng của Đảng, là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn Dân, là sự tiếp thu những thành tựu của tất cả các nền khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, đồng thời thể hiện nhân sinh quan chính trị, tầm nhìn chiến lược của Đảng cũng như sự phân tích và đánh giá đúng đắn, dự báo chính xác sự phát triển của thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế.

Vì vậy, các dự thảo cương lĩnh chiến lược, đường lối chính sách của Đảng phải được toàn dân tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến.

Phương pháp lãnh đạo của Đảng là phương pháp dân chủ, giáo dục thuyết phục và bằng uy tín của các đảng viên của Đảng. Đảng không dùng phương pháp mệnh lệnh cưỡng bức. Đó chính là sự khác nhau giữa phương pháp lãnh đạo của Đảng và phương pháp quản lý của Nhà nước.

So sánh vị trí, vai trò của Đảng ta trong hệ thống chính trị với vị trí, vai trò của các đảng phái chính trị ở Nhà nước tư sản, chúng ta thấy sự khác nhau cơ bản. ở nước ta vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được quy định trong Hiến pháp còn ở các nước tư bản không có nước nào quy định vai trò lãnh đạo của một dảng nào đó trong Hiến pháp.ở nhiều nước tư bản cũng có đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là đảng chiếm được đa số ghế trong nghị viện. Thủ lĩnh của đảng đó thường giữ chức vụ Thủ tướng chính phủ. Các thành viên Chính phủ thường thuộc về đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện. Một số đảng nắm quyền lãnh đạo chính trị ở các nước tư bản hiện nay là: Đảng Bảo thủ ở Anh, Đảng Dân chủ ở Mỹ, Đảng Quốc địa ở ý, ở ấn độ v.v... ở nhiều nước tư bản không có đảng cầm quyền vì không có đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện. ở những nước này thành lập chính phủ liên hợp bao gồm đại diện của hai hay nhiều đảng mạnh tuỳ theo tưong quan lực lượng của họ. Ví dụ ở Cộng hoà Liên bang Đức, ở Italia, ở Pháp.

Nhờ có Đảng cầm quyền và được thể chế hoá trong đạo luật cơ bản của Nhà nước trên so với các nước tư bản, chế độ chính trị của chúng ta có tính ổn định cao. ở các nước tư bản nhất là các nước không có đảng cầm quyền thể chế chính trị thường không ổn định. ở Pháp giai đoạn Cộng hoà Thứ Tư tồn tại 12 năm mà đến 26 lần thay đổi chính phủ.

Tuy nhiên, thể chế chính trị nào cũng có những nhược điểm nhất định . Cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội của chúng ta cũng dễ dẫn đến hiện tượng các cơ quan của Đảng bao biện làm thay chức năng của các cơ quan Nhà nước, can thiệp vào chức năng các cơ quan Nhà nước. Vì vậy chúng ta phải phân định rõ chức năng của các cơ quan của Đảng và các cơ quan Nhà nước, tránh hiện tượng nhầm lẫn chức năng của các cơ quan của Đảng và Nhà nước, và nhất là không được lợi dụng Đảng mà vụ lợi cho bản thân, tham nhũng, ức hiếp quần chúng nhân dân. Trong bài phát biểu của mình tại Hội nghị Trung ương 8 khoá VII, Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười nói:

“Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên được cử vào các cương vị khác nhau trong bộ máy Đảng, chính quyền đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Được trao quyền nhưng nhất thiết không được lạm quyền, hết lòng phục vụ, mang lại lợi ích cho nhân dân, làm người đầy tớ trung thành của nhân dân, tuyệt đối không được quan cách, hách dịch, cửa quyền, ức hiếp dân, hà lạm công quỹ, tham ô, lãng phí tài sản tiền bạc của dân”.

Thứ hai, việc tổ chức quyền lực Nhà nước không theo nguyên tắc phân quyền như nhiều chính thể của các Nhà nước khác mà tuân theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp.

Thực ra mà nói, nguyên tắc phân chia quyền lực Nhà nước từ khi sinh ra cho đến ngày nay được hiểu là một học thuyết dân chủ mang nhiều sắc tiến bộ so với việc tổ chức quyền lực trên thực tế. Trên thực tế, quyền lực Nhà nước bao giờ cũng có xu hướng tập trung cho thế lực cầm quyền nào đó. Cho nên để hạn chế sự quá tải củasự tập trung này, cần phải có sự phân chia. Hiến pháp được nhiều nhà luật học phân tích rằng, cố gắng phân chia quyền lực một cách cụ thể, nhưng mọi cố gắng của các nhà lập hiến đều tan biến khi có hoạt động của đảng phái chính trị cầm quyền. Vì vậy, cho dù phân chia có như thế nào đi chăng nữa thì quyền lực Nhà nước tư bản vẫn nằm trong tau giai cấp tư bản cầm quyền. Quyền lực thuộc về nhân dân chỉ được tiến hành khi có bầu cử trong thời gian ngắn. Hết bầu cử họ lại trở thành những người bị thống trị. Vì vậy, việc không áp dụng học thuyết trong tổ chức quyền lực Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có lý do cuả nó.

Bên cạnh giá trị dân chủ có tính cách hàn lâm, học thuyết vẫn có một gía trị thực tế nhất định. đó là việc phân công phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan. Hoạt động của Nhà nước ngày càng trở nên phức tạp, nếu không có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng thì các cơ quan Nhà nước khó có thể hoạt động.Đấy là lý do giải thích trong giai đoạn hiện nay, việc tổ chức quyền lực Nhà nước ta sử dụng hạt nhân hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực. Việc tổ chức quyền lực này có thể hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng khi sửa đổi Hiến pháp 1980: Tổ chức quyền lực của Nhà nước ta không tuân theo nguyên tắc phân chia quyền lực mà theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng có sự phân công, phân nhiệm một cách rạch ròi giữa các cơ quan. Khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi vào năm 2001, quan điểm tập quyền xã hội chủ nghĩa đã được diễn giải cụ thể trong điều 2 của Hiến pháp: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp.

Quốc hội trong phạm vi quyền hạn của mình phải thực hiện tốt chức năng lập pháp, để có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với cơ chế thị trường. Chính phủ phải quản lý Nhà nước theo đúng quy định của pháp luật và cuối cùng Toà án cũng chỉ tuân theo pháp luật, phụ thuộc vào pháp luật để thực hiện chức năng xét xử của mình. Và cứ như vậy, sẽ tạo ra một sự hoạt động đồng bộ của tất cả các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.

Chính sự tập quyền này thể hiện quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện quyền lực Nhà nước. Đây là nguyên tắc cơ bản trong các cơ quan Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện nội dung nguyên tắc này, tất cả các cơ qaun Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo lợi ích của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước nhận được quyền lực của nhân dân. Đó là một Nhà nước mà mọi quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc Nhà nước hoặc cử đại diện thay mặt mình đảm nhiệm các công việc của Nhà nước. Tất cả các cơ quan Nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Quốc hội, nhận quyền lực từ nhân dân.

Điều 2 Hiến pháp năm 1992 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.

Nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta, góp phần giải thích rõ nguồn gốc quyền lực Nhà nước ta. Quyền lực Nhà nước không phải từ “hư vô”, từ “thiên đình” như cách giải thích trước đây của giai cấp thống trị, để lợi dụng việc đó mà chia sẻ quyền lực giữa chúng với nhau, nhằm mục đích thống trị nhân dân, bắt nhân dân phải phục vụ quyền lợi cho chúng.

Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân (thể hiện trong Điều 2 Hiến pháp năm 1992) có nghĩa là tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân Việt Nam. Quyền lực Nhà nước không thể thuộc về một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hay một nhóm người nào. Quyền lực Nhà nước phải hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, trí thức và những người lao động khác mà nòng cốt là liên minh công nhân, giai cấp nông dân, trí thức. Nhân dân là người chủ duy nhất toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần của Nhà nước. Nhân dân có toàn quyền quản lý tất cả các công việc của Nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến vận mệnh quốc gia đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng của toàn thể dân tộc. Nhân dân có quyền tự do thể hiện ý chí của mình một cách trực tiếp bằng cách bỏ phiếu phúc quyết hoặc thông qua các đại biểu của mình, biến ý chí đó thành ý chí Nhà nước, thành quy phạm pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện.

Hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân ở nước ta là hình thức dân chủ đại diện. Đây là hình thức nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các cơ quan đại diện của mình đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thay mặt cho nhân dân cả nước giải quyết những công việc quan trọng nhất của nước nhà. Đó là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; quyết định kế hoạch Nhà nước; quyết định ngân sách Nhà nước; thành lập các cơ quan quan trọng nhất của Nhà nước; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; Quy định sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế v.v...

Như vậy thông qua Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình, nhân dân làm chủ đất nước. ở các địa phương nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương đó là Hội đồng nhân dân các cấp. Thông qua Hội đồng nhân dân các cấp, quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về mọi mặt, đảm bảo phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước cấp trên giao cho.

So với Hội đồng nhân dân, các cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra Quốc hội có ưu thế hơn. Đây là cơ quan Nhà nước duy nhất trong tất cả các cơ quan hợp thành bộ máy Nhà nước, do nhân dân toàn thể lãnh thổ đất nước bầu ra, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Vì vậy, được Hiến pháp quy định tất cả quyền lực Nhà nước tập trung vào trong tay Quốc hội. Tư tưởng tập trung quyền lực Nhà nước cho Quốc hội đã được thể hiện ngay từ Hiến pháp năm 1946. Nhưng việc tập trung này của Hiến pháp 1992 có chất lượng khác hơn. Tập trung nhưng vẫn có sự phân công, phân nhiệm cho các cơ quan Nhà nước khác.

Thứ ba, Chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khác với mô hình tổ chức Nhà nước của chủ nghĩa tư bản, được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Tập trung là dấu hiệu cần thiết của Nhà nước. Nhưng phụ thuộc vào chế độ xã hội, nội dung của tập trung có khác nhau. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, tập trung của Nhà nước mang tính chất quan liêu, chỉ thể hiện quyền lợi của số ít người giai cấp thống trị, mà không để ý, không tính đến quyền lợi của đại đa số nhân dân bị thống trị. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tập trung của Nhà nước phải mang tính chất dân chủ thể hiện quyền lợi của đại đa số nhân dân.

Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung lợi ích của Nhà nước, sự trực thuộc phục tùng của các cơ quan Nhà nước cấp dưới trước các cơ quan Nhà nước cấp trên, và chế độ dân chủ tạo điều kiện cho việc phát triển sáng tạo, chủ động và quyền tự quản của các cơ quan Nhà nước cấp dưới.

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung cao nhất là cách tổ chức và phân công quyền lực giữa các cơ quan cấp cao của Nhà nước, ở sự phân cấp giữa chính quyền trung ương và địa phương, ở chế độ giao quyền tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh giữa cơ quan Nhà nước với tổ chức kinh tế quốc doanh trực thuộc.

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước thường được thể hiện ở các mặt sau đây: Các cơ quan Nhà nước được thành lập bằng bầu cử, bằng bổ nhiệm; Trong hoạt động các cơ quan Nhà nước được thành lập bằng bầu cử, bằng bổ nhiệm; Trong hoạt động các cơ quan Nhà nước thực hiện chế độ bàn bạc tập thể, cá nhân chịu trách nhiệm về phần việc được phân công theo chế độ thủ trưởng; Quyết định của các cơ quan Nhà nước cấp trên buộc các cơ quan Nhà nước cấp dưới phải thi hành; khi ra quyết định, các cơ quan Nhà nước cấp trên phải tính đến lợi ích của cơ quan Nhà nước cấp dưới; trong phạm vi quyền hạn của mình các cơ quan Nhà nước được quyền quyết định, không có sự can thiệp vào công việc thuộc phạm vi quyền hạn của các cơ quan Nhà nước cấp dưới.

Trong mỗi loại cơ quan Nhà nước, sự vận dụng những dấu hiệu trên của nguyên tắc tập trung dân chủ phu thuộc vào nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan phải đảm nhiệm.

Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước có quyền quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân cả nước và đời sống của nhân dân từng địa phương, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải do nhân dân trực tiếp bầu ra và phải hoạt động theo chế độ tập thể. Mỗi quyết định của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải được các đại biểu bàn bạc dân chủ và quyết định theo đa số.
Với tư cách là cơ quan thực hiện các quyết định của các cơ quan quyền lực Nhà nước, các cơ quan chấp hành, hành chính Nhà nước phải được các cơ quan quyền lực Nhà nước bầu ra.

Đối với hoạt động của các cơ quan toà án, phải thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm và bầu Hội thẩm nhân dân, trong hoạt động xét xử phải độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật.

Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào trình độ quản lý, trình độ dân trí phù hợp với từng ngành, từng cấp, từng loại cơ quan Nhà nước. Trong từng địa phương, từng thời điểm khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc. Nếu như trước đây dựa trên cơ sở sở hữu chung của Nhà nước, chúng ta nhấn mạnh khía cạnh tập trung của nguyên tắc, thì ngày nay trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, thực hiện nguyên tắc này chúng ta cần thiết phải nhấn mạnh khía cạnh dân chủ để có thể tính hết mọi lợi ích của các thành phần xã hội, kể cả lợi ích của những người mà quan điểm của họ là thiểu số.

Thứ tư, mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, mang bản chất giai cấp công nhân, có mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, một xã hội công bằng không có giai cấp bóc lột.

Đó là một Nhà nước dân chủ, quyền lợi của giai cấp công nhân gắn liền với quyền lợi của nhân dân lao động, quyền lợi của dân tộc. Dân chủ với nhân dân nhưng lại chuyên chính với mọi kẻ thù của nhân dân, những thế lực thù địch chống lại Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, bản chất chuyên chính vô sản vẫn được giữ nguyên, nhưng được thể hiện dưới hình thức “Nhà nước của dân, do dân, và vì dân”.

Thứ năm, trong tổ chức hoạt động cơ quan Nhà nước, tạo nên chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và sự tham gia rộng rãi của nhân dân thông qua các tổ chức là thành viên của Mặt trận vào việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Do hoàn cảnh điều kiện của lịch sử, phải tập trung lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của Thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và những chiến sỹ cách mạng đã thành lập ra tổ chức liên hiệp tất cả mọi lực lượng. Năm 1941, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản lần thứ tám, thành lập Mặt trận Việt minh -Việt Nam độc lập đồng minh. Sau đó một thời gian, ngày 29 tháng 5 năm 1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt tuyên bố thành lập. Cương lĩnh của Hội nêu rõ: Mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập - thống nhất - Dân chủ - phú cường. Việc thành lập Liên Việt là sự phát triển của Mặt trân dân tộc thống nhất. Mặt trận Việt Minh là một bộ phận của Mặt trận Liên Việt. Qua chín năm kháng chiến, Mặt trận Liên Việt đã trở thành một trong những trụ cột của Nhà nước Dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thnàh áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng.1 Đó là tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Ngày 10 tháng 9 năm 1955 Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp tại Hà nội quyết định thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời nhằm tập hợp mọi lực lượng đánh đổ chế độ độc tài tay sai đế quốc Mỹ. Ngay sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng khỏi bè lũ thực dân và đế quốc nhiều người có quan điểm cho rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhưng với quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn tồn tại với nhiệm vụ mới của mình là thu hút mọi lực lượng cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.

Theo Điều 9 Hiến pháp 1992, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước".

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh và kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, và bảo lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát triển đa dạng các hình thức hoạt động, các phong trào yêu nước để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, không phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, quá khứ nhằm động viên mọi nguồn lực để xây dựng và bảo Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy tính tích cực cả các cá nhân tiêu biểu trong giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo để vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết cộng đồng, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Tìm hiểu thêm các thông tin liên quan tại: Tin tức pháp luật

Một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng bậc nhất của Mặt trận Tổ quốc là
việc tham gia công tác bầu cử. Điều 8 của Luật Mặt trận Tổ quốc quy định:

"Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, theo quy định của pháp luật bầu cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội , đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử; phổi hợp với cơ quan hữu quan tổ chức Hội nghị cử tri nơi cư trú, các cuộc tiếp xúc cử tri với những người ứng cử; tham gia tyuên truyền vận động cử tri thực hiện pháp luật bầu cử; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân".


Với tư cách là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trị - xã hội đóng một vai trò rất quan trọng. Đó là:

- Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học của chủ nghĩa xã hội của người lao động, trường học quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước. Trong phạm vi chức năng của mình công đoàn tham gia công việc Nhà nước và kiểm tra hoạt động của cơ quan Nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp, giáo dục công nhân viên chức, tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa. Cùng với các cơ quan Nhà nước, công đoàn chăm lo đời sống và đảm bảo quyền lợi của công nhân viên chức.

- Hội Nông dân Việt nam là tổ chức đoàn kết, giáo dục nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân lao động. Nhằm hướng dẫn những người sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa hội. Hội Nông dân Việt Nam kiến nghị với Nhà nước những vấn đề cần thiết trong chính sách nông nghiệp, giúp đỡ Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật quản lý nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân.

- Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ, là đội hậu bị, là cánh tay đắc lực của Đảng, đồng thời cũng là nguồn cung cấp cán bộ trẻ cho các cơ quan Nhà nước và các tổ chức quần chúng.

- Hội liên hiệp phụ nữ là tổ chức đoàn kết rộng rãi, động viên, giáo dục các tầng lớp phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng của mình với nam giới, đồng thời nhận thức rõ vai trò đặc biệt của giới phụ nữ trong việc làm mẹ và giáo dục và các thế hệ thanh thiếu niên. Trong hệ thống chính trị nước ta, các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên của nó tham gia vào việc hình thành các cơ quan Nhà nước.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội ban hành ngày 18-4-1992 và Điều 28 - Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì trong việc hợp thương với các tổ chức xã hội khác để giới thiệu những người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội khác trong Mặt trận là những thành viên trong các tổ chức bầu cử như Hội đồng bầu cử , ban bầu cử, tổ bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị với các cơ quan quyền lực Nhà nước bãi miễn các đại biểu không xứng đáng, đồng thời tham gia vào các tổ chức bãi miễn đó. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có quỳên giới thiệu các Hội thẩm nhân dân để các cơ quan đại diện của nhân dân lựa chọn bầu vào các toà án nhân dân.

Các tổ chức xã hội ở nước ta như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của nó như: Tổng Công đoàn Việt Nam; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, có quyền trình các dự án luật trước Quốc hội và dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Theo Điều 5 - Luật Công đoàn do Quốc hội thông qua ngày 30 - 6 - 1990 trong phạm vi các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ và lợi ích của người lao động, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước (nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội) Công đoàn tham gia với các cơ quan nhà nước xây dựng chính sách chế độ về lao động, tiền lương và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến người lao động. Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ cũng tham gia tích cực xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến thanh niên phụ nữ, bảo vệ thiếu niên nhi đồng.

Các tổ chức xã hội ở nước ta không những tham gia vào việc thành lập cơ quan nhà nước, tham gia vào việc xây dựng pháp luật mà còn tham gia vào việc quản lý Nhà nước, kiêmtra giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Điều 2 - Luật Công đoàn quy định:

“Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước. Trong phạm vi chức năng của mình thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định pháp luật".

Cũng như công đoàn, các tổ chức xã hội khác cũng có trách nhiệm tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Theo quy định của Luật Công đoàn, công đoàn có quyền tham gia với các cơ quan Nhà nước giải quyết khiếu nại tố cáo của người lao động theo pháp luật. Công đoàn đại diện cho người lao động thương lượng với thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức để giải quyết các tranh chấp lao động xảy ra trong cơ quan đơn vị tổ chức của mình. Khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc toà án xét xử tranh chấp lao động phải có đại diện của công đoàn tham dự và phát biểu ý kiến. Trước khi quyết định các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, thi hành kỷ luật đến mức buộc người lao động thôi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn thì giám đốc xí nghiệp, thủ trưởng cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp phải thảo luận nhất trí với ban chấp hành công đoàn (Điều 11,12). Các tổ chức công đoàn cũng như các tổ chức xã hội khác có thể nhân danh tổ chức đứng ra bảo vệ các thành viên của mình trước cơ quan pháp luật, tố cáo những hành vi phạm pháp luật của các cơ quan và các viên chức Nhà nước.

Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, các tổ chức xã hội đóng vai trò rất quan trọng. Cùng với hệ thống các cơ quan đại diện trong bộ máy Nhà nước, các tổ chức xã hội là công cụ quan trọng để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Cùng với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp để nhân dân ta xây dựng một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc, trên cơ sở xây dựng một Nhà nước “của dân, do dân, và vì dân”.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest quaTổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail:[email protected],[email protected].