-->

Hết 6 tháng mất quyền từ chối nhận di sản

Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng (kể từ ngày mở thừa kế).

Hỏi: Mẹ tôi mất có để lại một ít tài sản (có căn nhà) cho tôi và đứa em gái (cùng mẹ khác cha). Sau khi làm giỗ mẹ một năm xong, tôi đến Văn phòng công chứng làm thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế nói trên (vì không muốn chia đôi nhà) thì công chứng viên không chịu chứng. Chị ấy giải thích là hết thời hạn sáu tháng kể từ ngày mẹ tôi mất nên tôi hết quyền từ chối mà phải nhận thừa kế. Đề nghị Luật sư tư vấn, công chứng viên làm vậy có đúng không? (Hoàng Hùng - Ninh Bình)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định như sau:

"3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế".(khoản 3 Điều 642)

"1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này". (khoản 1 Điều 633)

Như vậy, kể từ thời điểm người có tài sản chết trong, thời hạn sáu tháng thì anh (chị) có quyền từ chối nhận di sản. Tuy nhiên, hết thời hạn trên mà anh (chị) không lập văn bản từ chối nhận di sản thì xem như anh(chị) đã đồng ý nhận thừa kế, công chứng viên giải thích như trên là hợp lý.

Trường hợp anh (chị) không muốn nhận thừa kế vì không muốn chia đôi nhà thì anh (chị) có thể nhận di sản thừa kế ( vẫn làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế) và thực hiện tặng lại phần thừa kế của mình cho người em gái (nếu muốn).

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.