-->

Đòi lại khoản vay khi người vay đã mất như nào?

Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Hỏi: Trước lúc bố tôi qua đời thì ông có mượn của ông A 200.000.000 VND. Trước đó mẹ tôi có cảnh báo với ông A là nếu cho ba tôi mượn thì sau này có vấn đề gì thì gia đình tôi sẽ không chịu trách nhiệm. Ông A đe dọa và đòi tiền gia đình tôi. Nhưng ông Avẫn làm ngơ lời cảnh báo đó mà cho ba tôi mượn tiền với số tiền là 200.000.000 VND. Có viết giấy tay ( bằng cặp giấy trắng vở) mượn tiền nhưng không ghi rõ hình thức trả tiền - chỉ ghi là ông A cho ba tôi mượn tiền. Sau khi ba tôi mất,ông A liên tục đến nhà tôi đòi tiền, nhưng gia đình tôi nhất quyết không trả vì trước đó gia đình tôi đã cảnh báo với ông A rồi. Dạo gần đây ông A liên tục đe dọa gia đình tôi, làm gia đình tôicảm thấy bất an khi làm việc hoặc sinh sống. Đề nghị Luật sư tư vấn, trong trường hợp này gia đình tôi phải giải quyết như thế nào? Trong trường hợp này gia đình tôi có phải trả số tiền đó không? (Thanh Mai - Phú Thọ)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phùng Thị Huyền - Tổ tư vấn pháp luật dân sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin mà anh (chị) cung cấp, mặc dù mẹ anh (chị) đãcảnh báo với ông A nhưnggiữa bố của anh (chị) và ông Ađã có giao kết hợp đồng vay/mượn tài sản (giấy mượn tiền)vì Bộ luật Dân sự không quy định hợp đồng vay tài sản cũng như hợp đồng mượn tài sản phải tuân thủ bất kỳ hình thức nào nên các bên có thể giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể - Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:"Hình thức hợp đồng dân sự nhự sau: 1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. 2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".

Nghĩa vụ trả nợ khi người vay tài sản đã chết:

Theo Điều 637 quy định vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như sau:

“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 2. Trong trường hợp di sản chưa được chia, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế. 3. Trong trường hợp di sản đã được chia, mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân”.

Theo quy định nêu trên, khi người vay tiền (bố của anh (chị) đã chết thì nghĩa vụ trả nợ cho ông A sẽ do những người thừa kế của bố anh (chị) thực hiện, bao gồm: người thừa kế theo di chúc (nếu người vay tiền bạn để lại di chúc); người thừa kế theo pháp luật.

Do đó, ông A có thể đòi lại số tiền đã cho vay, ông Acó thể yêu cầu những người thừa kế của người vay tiền (bố của anh (chị) đã chết (ví dụ như: vợ, cha mẹ đẻ, các con…) thực hiện nghĩa vụ trả nợ ông A. Tuy nhiên, anh (chị) chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản mà anh (chị) được hưởng, trừ trường hợp có thoả thuận khác (khoản 1 điều 637 Bộ luật Dân sự 2005).

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật dân sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.