Đất chưa có sổ đỏ chia thừa kế như thế nào?

Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp...

Hỏi: Năm nay 37 tuổi. Hiện đang ở tại Xã MX, Huyện CL, tỉnh ĐT. Xin hỏi Quí đơn vị tư vấn pháp luật nội dung như sau: Ông Nội tôi có tám người con, trong đó Bố tôi là con trai người thứ 6, hiện tại còn sống là người thứ 3 (con gái), người thứ 5 (con trai), người thứ 9 (con trai Út). Bố tôi mất năm 2004.Hiện tại tôi đang sống trên phần đất của Ông Nội tôi đề lại cho Bố tôi (tôi là con trai Út), nhưng phần đất này hiện tại không có giấy quyền sử dụng đất. Do hồi đó ông Ông Nội tôi đứng tên quyền sử dụng, khi Ông qua đời Chú Út tôi tự làm giấy và chuyển toàn bộ phần đất của Ông nội đứng tên sang cho Chú Út tôi đứng tên, việc sang tên đó Bố tôi không hay biết.Sau này tôi cất nhà chuẩn bị lập gia đình cho tôi thì Bố tôi có gặp Chú Út tôi để xin sang phần đất để làm thủ tục xây dựng nhà cho đúng qui định Pháp luật nhưng Chú Út tôi không đồng ý. Vì công việc gấp tôi vẫn xây dựng (nhà cấp VI vùng nông thôn nên cũng dễ dàng)Sau nhiều lần tôi cùng mẹ tôi và người Bác thức 5 có gặp Chú Út tôi để bàn bạc chuyển phần đất tôi đang ở hiện tại để tôi được đứng tên. Nhưng Chú Út tôi do dự không đồng ý.Rất mong Quí đơn vị tư vấn pháp luật giúp tôi làm cách nào tôi có phần đất đang ở là quyền sử dụng của mình. (Minh Long - Hà Nam)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:


Tại điều 645 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...”.
Căn cứ theo Điểm 2.4 Điều 2 Mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình” về trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:

“Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết…”.
Bạn không trình bày thời điểm ông bạn mất, chỉ nêu bố bạn mất năm 2004, tôi hiểu rằng ông bạn mất trước đó. Mà thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm, hết 10 năm thì người được thừa kế không có quyền khởi kiện nữa. Vì vậy trường hợp của bạn không thể khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế nữa.
Tuy nhiên, trường hợp hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế nêu trên nhưng nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Nghị quyết 02 thì di sản đó sẽ trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế. Nếu các đồng thừa kế di sản của ông nội bạn không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do ông bạn để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Bạn cùng các đồng thừa kế di sản của ông nội bạn có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung.
Sau khi Tòa án thụ lí, giải quyết việc chia tài sản chung, nếu phần đất bạn đang ở được chia cho nhiều người, bạn có thể thanh toán cho những người còn lại phần giá trị mà họ được hưởng để có quyền sử dụng toàn bộ phần đất.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.