-->

Con chưa nhận bố đẻ, có được thừa kế tài sản của bố đẻ không?

Nếu trước khi qua đời nhưng chưa kịp thừa nhận anh (chị) đúng là con đẻ của ông bị thất lạc từ nhỏ thì anh (chị) cần phải đến UBND cấp xã nơi cư trú của anh (chị) hoặc của người cha đẻ để thực hiện việc đăng ký nhận cha trước khi làm thủ tục hưởng thừa kế.

Hỏi: Bố mẹ tôi sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, khi tôi được một tuổi thì họ chia tay. Đến giờ tôi vẫn sống với mẹ và mang họ mẹ. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi mang họ mẹ và giấy khai sinh chỉ có tên mẹ thì có được thừa kế tài sản của bố không? (Mai Anh - Huế)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198


Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế -Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 1 Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền nhận cha, mẹ: “Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết”.

Điều 25 Luật hộ tịch 2014 quy định thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con như sau: "1. Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.2. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.Trường hợp cần phải xác minh, thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày làm việc”.

Điều 15 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015, chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con bao gồm: "1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan, làm chứng không đúng sự thật.Cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối giải quyết theo quy định tại Điều 5 của Thông tư này hoặc hủy bỏ kết quả đăng ký hộ tịch, nếu có cơ sở xác định nội dung cam đoan, làm chứng không đúng sự thật”.

Khoản 1 Điều 676 Luật dân sự năm 2005 quy định:"Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại."

Do đó, nếu trước khi qua đời nhưng chưa kịp thừa nhận anh (chị) đúng là con đẻ ông bị thất lạc từ nhỏ thì anh (chị) cần phải đến UBND cấp xã nơi cư trú của anh (chị) hoặc của người cha đẻ để thực hiện việc đăng ký nhận cha trước khi làm thủ tục hưởng thừa kế. Do anh (chị) là con ruột nên anh chị thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản thừa kế như những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.