Thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Hỏi: Ông bà nội tôi có 09 người con: nam thì gồm bác hai, bác tư, cha tôi là con thứ bảy (út). Bác hai và bác tư đã được ông bà nội chia phần đất đai đã lâu. Còn lại cha tôi, do ở chung nhà với ông bà nội nên chưa chia. Đến khi bà nội mất (tới nay đã được 06 năm) thì ông nội có sang nhượng lại toàn bộ đất đai do ông nội đứng tên cho cha tôi (hiện ông nội vẫn ở chung với cha mẹ tôi). Thời gian năm 2015 đến nay, cha tôi có bán đất cho người khác và giấy tờ sổ đỏ đã sang nhượng xong thì hai bà cô là cô tám và cô chín lại làm đơn thưa cha tôi để chia lại đất. Đề nghị luật sư tư vấn giúp, hai bà cô của tôi nếu kiện ba tôi thì có thể thắng kiện được cha tôi không? (Thế Dũng)
Luật gia Nguyễn Bảo An- Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHHEverest- trả lời:
Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
"1.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng".
Theo đó, nếu mảnh đất mà ông anh sang tên cho bố anh là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân giữa ông và bà nội của anh mà không phải do ông được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì đó là tài sản chung của ông bà nội của anh. Khi đó, việc ông anh sang tên hết mảnh đất đó cho bố anh là không đúng bởi theo quy định tại khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 thì cả ông và bà đều có một nửa quyền sở hữu đối với mảnh đất đó.
Do bà anh đã mất nên một nửa quyền sở hữu đối với mảnh đất đó sẽ trở thành di sản và sẽ được phân chia theo di chúc trong trường hợp bà của anh có để lại di chúc hoặc phân chia theo quy định của pháp luật trong trường hợp bà của anh không để lại di chúc.
Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
"1.Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Theo đó, trong trường hợp bà của anh không để lại di chúc thì phần di sản mà bà anh để lại sẽ được chia đều thành 6 phần cho ông của anh, bác 2, bác 4, bố của anh, cô 8 và cô 9. Như vậy, ông của anh chỉ có quyền sở hữu đối với ½ + (1/2 : 6)= 7/12 diện tích mảnh đất đó, phần diện tích đất còn lại thuộc sở hữu của 2 bác, bố anh và 2 cô. Trong trường hợp ông của anh muốn sang tên cho bố của anh toàn bộ mảnh đất thì cần phải có sự đồng ý của 2 bác và 2 cô của anh.
Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Như vậy, thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.Theo quy định tại khoản 1 Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết nên nếu tính từ thời điểm bà của anh chết đến giờ đã hơn 10 năm thì những người có quyền hưởng di sản bao gồm cả 2 cô của anh sẽ không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế nữa.Trong trường hợp thời hiệu để khởi kiện yêu cầu chia di sản vẫn còn thì 2 cô cũng như 2 bác của anh hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế. Khi đó, Tòa án sẽ xem xét và giải quyết yêu cầu chia di sản.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận