Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
Hỏi: Tôi và chồng tôi tổ chức đám cưới vào ngày 15-10-2000 có sự chứng kiến, ủng hộ của hai bên gia đình, bè bạn và cơ quan nhưng không đăng ký kết hôn. Chúng tôi chưa kịp sinh con thì bất ngờ vào ngày 23-3-2003, chồng tôi bị tai nạn và đã mất. Sau khi chồng tôi mất không lâu, phía gia đình chồng phát sinh tranh chấp về khối tài sản chung của hai vợ chồng tôi vì họ cho rằng chỉ có mẹ chồng tôi mới là người thừa kế duy nhất của anh ấy (bố chồng tôi đã mất). Xin cho biết, trước pháp luật tôi có được thừa nhận là người thừa kế của chồng tôi không? Nếu tôi làm đơn khởi kiện tranh chấp về tài sản thì quyền lợi của tôi sẽ được giải quyết ra sao? (Thanh Trung - Hải Dương)
Căn cứ tại Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình có quy định như sau:
"b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng...nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết".
Như vậy, tuy vợ chồng chị cưới nhau vào năm 2000 nhưng không đăng kí kết hôn nên theo quy định pháp luật anh chị sẽ không được công nhận là vợ chồng.
Và căn cứ tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định vềnhững người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
"a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;...
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau".
Do đó, theo quy định pháp luật, chị không thuộc hàng thừa kế nên sẽ không được hưởng di sản thừa kế của chồng (trừ trường hợp chồng bạn có để lại di chúc cho chị hưởng di sản thừa kế).
Trong trường hợp, nếu chị có yêu cầu chia tài sản chung của hai người thì tòa sẽ áp dụng quy định tại Điều17 Luật hôn nhân gia đình 2000 cụ thể là:"Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con".
Sau khi phân chia xong tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản của chồng chị sẽ là di sản thừa kế. Nếu chồng chị có di chúc để lại và di chúc này hợp pháp sẽ phân chia theo di chúc đó. Còn nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản thừa kế để lại sẽ được phân chia theo pháp luật. Theo đó, những người ở hàng thừa kế thứ nhất là mẹ chồng của chị, con của chị sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau và bằng ½ di sản thừa kế mà chồng chị để lại theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận