-->

Có đòi được tiền đã ứng để người khác mua gỗ?

Trong trường hợp của anh (chị) hoàn toàn có thể đòi được tổng số tiền 90tr đồng nếu giao dịch giữa em gái anh (chị) và người bán gỗ hợp pháp. Trong trường hợp người kia không trả nợ thì anh (chị) có thể kiện đòi tài sản.

Hỏi:Em gái tôi có xưởng chế biến gỗ, có ứng tiền cho 1 người để họ mua đồi khai thác sau đó bán gỗ cho xưởng của em gái tôi, sau nhiều lần ứng tiền và thu mua gỗ của người ấy thì người ấy còn nợ lại số tiền hơn 27 triệu đồng, nhưng sau đó người này cứ lần lữa không chịu trả hết. Đề nghị Luật sư tư vấn, như vậy liệu có đòi được tiền không? (Bàn Văn Lâm - Lạng Sơn)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Huy Hoàng - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Trong trường hợp của anh (chị) hoàn toàn có thể đòi được tổng số tiền 90tr đồng nếu giao dịch giữa em gái anh (chị) và người bán gỗ hợp pháp. Trong trường hợp người kia không trả nợ thì anh (chị) có thể kiện đòi tài sản.

Trong trường hợp này, anh (chị) hoàn toàn có quyền khởi kiện người đó ra tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang sinh sống yêu cầu tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi khởi kiện tại tòa, anh (chị) cần cung cấp chứng cứ chứng minh về việc người bên kia nợ tiền anh (chị). Tòa sẽ xác minh quan hệ vay nợ đó có đúng hay không. Nếu đúng như những gì anh (chị) trình bày, tòa sẽ yêu cầu người kia trả lại khoản tiền vay cho anh (chị). Trong trường hợp người đó không đủ khả năng trả tiền cho anh (chị) thì tòa sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án buộc người đó phải trả nợ.

Ngoài ra, người kia có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự:

Điều 140*. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

"1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm; e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.