-->

Chung sống với nhau như vợ chồng, chia quyền sử dụng đất như thế nào?

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn về việc chia quyền sử dụng đất khi nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng.

Hỏi: Tôi và vợ không có đăng kí kết hôn, trong sổ hộ khẩu cũng không có tên vợ. Trong sổ đỏ mới cấp 2013, tôi là người được thừa kế do mẹ ruột cho và đứng tên tôi. Tôi có hai con nhưng hộ khẩu chỉ có một đứa. Chúng nó đã trên 18 tuổi. Thời gian chung sống từ 1996 đến 2014 trên đất bên vợ có sổ đỏ riêng. Vậy cho tôi hỏi, theo luật hôn nhân và gia đình mới sửa đổi hiện nay, đất của thừa kế riêng tôi được đưa vào sử dụng 2009 đến 2014 có phân chia theo luật định hay không? Tôi ly thân từ tháng 3 năm 2014. (Thái Bình - Hà Giang)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Căn cứ điểm b khoản 3 – Nghị quyết 35/2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình như sau:“3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thìđược khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thìcó nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệulực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng kýkết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn củaLuật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;c) Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a vàđiểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồngmà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu cóyêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết”.
Vợ chồng bạn đã chung sống với nhau từ năm 1996 mà sau năm 2003 vẫn không đăng kí kết nên không được công nhận là vợ chồng. Vậy nên tài sản của hai bạn sẽ được giải quyết theo nghĩa vụ tài sản giữ nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mag không đăng kí kết hôn quy định tại Điều 16 Luât hôn nhân gia đình 2014.
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Như vậy, tài sản giữa hai bạn sẽ do hai bạn tự thỏa thuận với nhau. Nhưng việc thỏa thuận chia tài sản này phải đảm bảo lơi ích của người phụ nữ. Đối với mảnh đất mà bạn được thừa kế của mẹ, do bạn và vợ hiện tại không có đăng kí kết hôn nên mảnh đất đó sẽ thuộc tài sản riêng của bạn. Bạn có thể đồng ý chia cho vợ hoặc không.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.