Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Hỏi: Tôi có cho một cô X vay tiền lấy lãi với giá 12%/ tháng. Số tiền khá lớn khoảng 300 triệu. Cô X chuyên làm nghề cho vay nặng lãi, lấy tiền của tôi để cho các mối khác vay với phần trăm rất cao, giá cắt cổ. Tôi có giấy viết tay với cô X này. Hiện nay, cô X lấy lý do là các mối khác không trả tiền nên không có tiền lãi trả tôi, tiền gốc cũng không trả.Theo tôi biết thì cô X vẫn làm ăn bình thường nhưng cố ý lừa đảo để chiếm đoạt số tiền của tôi. Hiện, nhà vợ chồng cô X đang ở sổ đỏ đứng tên bố mẹ chồng. Cô X hoàn toàn không có tài sản gì. Đề nghị luật sư tư vấn, tôi có thể kiện cô X hay có biện pháp gì để lấy lại tiền không ? ( Hà Anh - Sơn La)
Luật gia Nguyễn Thị Hoa - tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như thư anh (chị) đã trình bày, anh (chị) cho cô X vay tiền, số tiền 300 triệu đồng, lãi suất 12%/ tháng, hình thức hợp đồng vay là có giấy viết tay. Pháp luật hiện nay không quy định Hợp đồng vay tài sản bắt buộc phải tuân theo bất kỳ hình thức nào nên hai bên có thể giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể quy định tại Điều 401 Bộ luật Dân sự năm 2005. Vậy nên giấy viết tay này có giá trị như hợp đồng vay tài sản. Do đó, cô X - bên vay có nghĩa vụ như sau:
Điều 474 Bộ luật dân sự 2005: Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
"1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ".
Do vậy, anh (chị) có thể khởi kiện lên Toà án yêu cầu cô X thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, trong giao dịch này, số tiền vay là 300 triệu, mức lãi suất là 12%/ tháng. Mức lãi suất này có dấu hiệu của tội cho vay nặng lãi quy định tại Điều 163 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009:
Điều 163. Tội vay nặng lãi
"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".
Điều 476 Bộ luật dân sự 2005 quy định về mức lãi suất cao nhất :
Điều 476. Lãi suất
"1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ".
Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố hiện nay là 9%/năm, tương ứng 0,75%/tháng. Vậy mức lãi suất mà hai bên thỏa thuận không được vượt quá 1,125%/tháng. Mức lãi suất cấu thành tội cho vay nặng lãi là 11,25%/tháng trở lên. Như vậy trong trường hợp này, khi anh (chị) khởi kiện rất có thể anh (chị) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội cho vay nặng lãi.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận