-->

Chia thừa kế khi đã hết thời hiệu như thế nào?

Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: Không có di chúc; Di chúc không hợp pháp.

Hỏi: Ông T có 5 người con là H, Đ, M, Ch, C. Năm 1999 ông T chết không để lại di chúc. Anh C là con út và trước đó có sống chung với ông T nên sau khi ông T mất thì anh C vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà mà ông T để lại, còn những người anh đều đã lập gia đình và ra ở riêng. Hàng năm anh C vẫn thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Đến năm 2015 anh C làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, cán bộ địa chính trả lời anh là chưa thể làm được do mảnh đất này có tranh chấp. Anh H đã làm đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp, xác định nhà đất trên là di sản thừa kế mà ông T để lại phải được chia đều cho 5 người nhưng anh C không đồng ý. (Sau khi ông T mất thì chưa có văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế cũng như không có vă bản xác nhận của cả 5 người đây là tài sản mà ông T để lại). Đề nghị Lụật sư tư vấn, nếu hòa giải tại UBND không được thì anh H có thể khởi kiện ra Tòa hay không? Nếu anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án chia thừa kế thì tòa án có thụ lý hay không? Nếu anh C nhất quyết không chịu ký vào giấy xác nhận đây là tài sản chung của các đồng thừa kế thì Tòa án có giải quyết được không? (Nguyễn Nhật Quang - Bắc Giang)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) thì khi ông T chết không có di chúc thì di sản của ông T sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Vấn đề này được quy định tại Điều 675 BLDS: “Những trường hợp thừa kế theo pháp luật: 1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: a) Không có di chúc; b) Di chúc không hợp pháp”.

Khi ông T chết không để lại di chúc thì sẽ chia thừa kế theo pháp luật cho tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Điều 676 BLDS quy định: “Người thừa kế theo pháp luật: 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

Như vậy, Theo quy định của pháp luật thì H, Đ, M, Ch, C sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, anh C không có quyền căn cứ vào việc anh ở đó chăm sóc ông T và sống lâu dài tại đó mà không chia tài sản cho cho những người đồng thừa kế khác.

Về di sản của ông T để lại, nếu khi ông T còn sống mà có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được coi là di sản. Nếu khi ông T còn sống mà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì căn cứ theo hướng dẫn tại Mục II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP như sau: “1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản: 1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản. 1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế. 1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau: a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó. b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai. c. Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó. 1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai”.

Nếu UBND xã không hòa giải được thì anh H có được khởi kiện ra Tòa không?

Điều 25 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định: “Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: 2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.….. 5. Tranh chấp về thừa kế tài sản. 7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai”.

Khoản 7 Điều 26 BLTTDS 2004, sửa đổi bổ sung 2011 quy định: “7. Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”.

Như vậy, trường hợp của anh (chị), nếu anh H khởi kiện giải quyết tranh chấp quyền sở hữu tài sản hoặc yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dùng tài sản thì sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có tài sản (bất động sản) đang tranh chấp. Vì thế, nếu anh H có yêu cầu thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết.

Nếu anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án chia thừa kế thì tòa án có thụ lý hay không?

Theo quy định tại Điều 645 BLDS thì “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Điều 633 BLDS quy định: “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này”.

Như vậy, trong trường hợp này ông T đã mất từ năm 1999 đến nay đã quá 10 năm nên anh H không thể yêu cầu Tòa án chia thừa ké nữa, nếu có yêu cầu thì Tòa án cũng không thụ lý giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế.

Tuy nhiên, khi hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế mà số tài sản này chưa được chia thì sẽ chuyển thành tài sản chung chưa chia, nếu đương sự có yêu cầu thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết Theo hướng dẫn tại khoản 2.4 mục I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP như sau: “a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc. a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ. a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Nếu anh C nhất quyết không chịu ký vào giấy xác nhận đây là tài sản chung của các đồng thừa kế thì Tòa án có giải quyết được không?

Nếu anh C không dồng ý ký vào văn bản xác nhận đây là tài sản chung chưa chia của các hàng thừa kế thì di sản này sẽ không chia được và Tòa án cũng sẽ không giải quyết. Đồng thời anh C cũng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì khoản 2.4 Mục I nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP đã quy định: Trường hợp hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, nếu các đồng thừa kế muốn chia thừa kế thì phải đảm bảo được các điều kiện sau:Không có tranh chấp hề hàng thừa kế;Xác nhận là đồng thừa kết;Xác nhạn là di sản do người chết để lại chưa chia.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.