Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền
Hỏi: Trường hợp chồng tôi muốn ly hôn. Vợ chồng tôi có 2 con gái (lớn 12 tuổi, bé 6 tuổi) do công việc chồng tôi thường đi làm ăn xa, các con ở cùng với mẹ. Đề nghị Luật sư tư vấn, trong trường hợp này chồng tôi đơn phương xin ly hôn tôi không đồng ý ly hôn thi có ly hôn được không? Nếu được ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi cả 2 con (gia đình chồng tôi cũng không đồng ý) thì tôi có quyền đòi nuôi dưỡng con hay không. Tôi đang có công việc ổn định mức 4tr/tháng cộng với thu nhập ngoài. Chồng tôi lương 10tr/tháng nhưng lại đi làm xa không có thời gian cho con cái. (Trần Ánh - Hải Dương)
- Thứ nhất, quyền ly hôn và căn cứ cho ly hôn
Tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
"1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”
Theo đó, chồng chị có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương.
Tuy nhiên, việc đơn phương ly hôn cần phải có căn cứ để được Tòa án cho ly hôn, cụ thể, tại Mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có quy định căn cứ cho ly hôn:
a. Theo quy định thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này.…
a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt".
- Thứ hai, về quyền nuôi con khi ly hôn
Tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau:
Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
"1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Về nguyên tắc, việc nuôi con khi ly hôn trước hết do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con, Tòa án sẽ xem xét các yêu tố sau đây để đưa ra quyết định sẽ giao con cho ai nuôi dưỡng:
- Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên có thể dành cho con, các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;
- Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn… của cha mẹ.
Trường hợp của bạn, cả hai cháu đều trên 36 tháng tuổi nên sẽ không ưu tiên cho bạn về quyền nuôi con. Khi này, hai bên có nghĩa vụ chứng minh điều kiện để quan tâm, chăm sóc, giáo dục con của mình là tốt nhất để Tòa án xem xét giao quyền trực tiếp nuôi con.
- Thứ ba, về cấp dưỡng cho con sau ly hôn
Theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”
Về mức cấp dưỡng, theo quy định thì trước hết sẽ do hai bên thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào các yếu tố cần thiết để quyết định mức cấp dưỡng sao cho phù hợp với khả năng và nhu cầu thiết yếu của các bên.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo
- Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận