-->

Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn?

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Hỏi: Tôi và chồng cũ kết hôn đầu năm 2012 và sau hơn năm chung sống vợ chồng tôi liên tục xảy ra xung đột, cãi vã. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Không đạt được mục đích hôn nhân rồi chúng tôi li hôn. Trong quá trình chung sống chúng tôi có 01 đứa con trai năm nay 3 tuổi. Nhưng thời điểm đó gia đình bên ngoại tôi lâm vào tình cảnh khó khăn, khốn đốn nên chồng tôi có yêu cầu xin được nuôi con và được tôi chấp thuận. Hàng tháng tôi vẫn chu cấp cho con đầy đủ với mức tiền thoả thuận là 02 triệu đồng. Hiện tại chồng cũ tôi đã cưới vợ mới và chuẩn bị đón sự chào đời của đứa con chung họ. Tôi cũng chuẩn bị lập gia đình riêng. Tôi có trình bày nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dạy con thì chồng cũ tôi và gia đình họ không đồng ý. Chồng mới của tôi làm nghề lái xe, thu nhập trung bình 10-12 triệu/tháng. Tôi hiện tại chưa tìm được công việc phù hợp để kinh doanh nên ở nhà làm việc nhà. Luật sư có thể tư vấn giúp tôi về việc tôi muốn giành lại quyền nuôi con khi gia đình chồng cũ tôi không đồng ý được không? (Nhật Lệ - Hà Nam)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014:"Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn: 1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:a) Người thân thích;b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;d) Hội liên hiệp phụ nữ".

Theo quy định của pháp luật chị có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con.
- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Điều kiện nuôi con được quy định ở trên có thể được xác định gồm:

Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… mà mỗi bên dành cho con, yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ.

Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con, điều kiện cho con vui chơi giải trí, trình độ học vấn… của cha mẹ.

Chị có thể căn cứ vào các điều kiện đó, thỏa thuận với chồng cũ về thay đổi quyền nuôi con. Nếu không thỏa thuận được thì chị có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và chị phải đưa ra các chứng cứ về việc người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.