-->

Xử phạt hình sự hành vi vi phạm luật an toàn giao thông

Hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản.

Hỏi: Tôi có người em bà con năm nay 24 tuổi. Vừa rồi em ấy đi xe máy cùng 1 người bạn trên đường, do chạy nhanh nên không tránh kịp nên đã đụng vào 1 người trong nhóm 3 người đang dừng xe bên lề gây thiệt hại đến tính mạng. Người đi chung xe với em tôi cũng té văng ra vì vết thương quá nặng nên cũng qua đời. Bên gia đình em tôi đã đến viếng và chia sẻ với gia đình người mất. Gia đình em tôi đã phụ một số tiền với gia đình, và bên gia đình đó đã nhận. Nhưng rồi ý định của gia đình đó là nếu bên gia đình em tôi chịu bồi thường với mức là 120 triệu thì gia đình đó sẽ không kiện và nói em tôi sẽ không phải chịu án. Như vậy có đúng không, vì em tôi không có bằng lái xe, còn phần gia đình bên người đi chung với em tôi thì hoàn toàn không truy cứu vì nghi đó là số phận, bạn bè đi chơi chung. Theo luật sư thì mức bồi thường như vậy thì có hợp lý và em tôi có phải chịu mức phạt gì nữa không. (Nguyễn Hùng - Hà Nội)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

- Thứ nhất về mức hình phạt:

Em của bạn đã vi phạm quy định giao thông, gây thiệt hại đến tính mạng người khác, đã cấu thành tội phạm và có thể bị xét xử theo điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông.

Theo Điều 202 Bộ Luật Hình Sự:

“Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

Theo khoản 1 Điều 3 của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC: "Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản".

Căn cứ theo quy định trên, hành vi vi phạm Luật giao thông dẫn đến thiệt hại về tính mạng con người của em bạncó thể bị áp dụng hình phạt tù từ 6 tháng đến năm năm.
Ngoài ra, em bạn sẽ còn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người kia theo quy định tại khoản 1 Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo điều 605 Bộ luật dân sự:
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường”.

Như vậy, mức bồi thường, hình thức, cách thức bồi thường sẽ được quết định căn cứ vào thực tế và thỏa thuận giữa các bên.

- Thứ hai:Việc gia đình người bị hại
rút đơn khởi kiện để em bạn không phải chịu án có hợp lý hay không
Theo điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự:
“Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”.
Như vậy, chỉ có những tội được quy định ở trên thì khi có đơn yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại vụ án hình sự mới được khởi tố, còn với đối với những tội danh khác, dù người bị hại có rút đơn kiện thì với hậu quả gây ra, vụ án hình sự vẫn được khởi tố xét xử. Như vậy, trong trường hợp này, dù gia đình người bị hại có rút đơn khởi tố, em bạn vẫn phải chịu án phạt theo quy định của Luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.