Tư vấn về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua nhiều người

Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định.

Hỏi: Năm 2000 mình có bán một mảnh đất́t trên thửa đất đang ở là rộng( đầu cuối đều 5m) cho 1 người khác và biên bản, sơ đồ vẽ ranh giới rõ ràng và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Sau đó người mua đất nhà tôi lại bán cho người thứ 2; người thứ 2 này bán cho người thứ 3, người thứ 3 bán cho người thứ 4. Khi người thứ 4 mua mang sổ đỏ của cơ quan có thẩm quyền cấp đến nhà tôi bảo là: mảnh đất của họ mua của người thứ 3 là rộng 5,2m. Không phải 5m như tôi bán ban đầu và yêu cầu nhà tôi phải đập tường trả cho họ thêm 20cm còn thiếu. Tôi viết này tha thiết nhờ luật sư tư vấn cho gia đình tôi với. (Nguyễ Hưng - Hà Nội).




>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:


Theo những thông tin mà bạn cung cấp, chúng tôi hiểu rằng mảnh đất của bạn thuộc loại đất phi nông nghiệp. Và việc người thứ tư đến đòi đất của bạn là không có căn cứ.

Theo Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất:

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.

2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của Luật này.

3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”.

Do đó, khi bạn chuyển quyền sử dụng đất bạn bắt buộc phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất đó và những người (người thứ 2, người thứ 3 nếu trên) khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác cũng phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất đó. Vì khi bạn chuyển nhượng quyền sử dụng đất (mảnh đất dài rộng 5m), trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bạn sẽ được ghi lại và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Mặt khác, bạn có những giấy tờ, biên bản, sơ đồ địa chính là những căn cứ xác nhận việc bạn chuyển nhượng mảnh đất trên chỉ với diện tích dài rộng là 5m. Vì vậy mà người thứ 4 không thể đòi đất của bạn được và việc mảnh đất từ 5m trở thành 5.2 m có thể do sự nhầm lẫn khi đo đạc hoặc do nhầm lẫn trong quá trình chuyển quyền sử dụng đất giữa người thứ 2 với người thứ 3 hoặc người thứ 3 với người thứ 4.

Cách giải quyết: Trước tiên, bạn nên đưa ra những chứng cứ trên chứng minh cho người thứ 4 biết về diện tích của mảnh đất mà bạn chuyển nhượng đó. Nếu bên thứ 4 vẫn không đồng ý, bạn có thể nhờ đến sự trợ giúp của cơ quan chức năng có thẩm quyền như Ủy ban nhân dân Huyện (Bạn làm đơn yêu cầu phòng Tài nguyên Môi trường của Ủy ban nhân dân Huyện cử đoàn đo đạc và thanh tra đến để tiến hành thanh tra và kiểm tra lại hồ sơ tại Ủy ban nhân dân Huyện nơi có mảnh đất của bạn).

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.