Tư vấn thừa kế
Hỏi: Chị của tôi sau khi lập gia đình thì ra ở riêng và có khai khẩn được 7 công đất. Chị có 02 người con 01 trai và 01 gái. Năm 2009, chị tôi mất, lúc đó 2 cháu tôi đứa được 06 tuổi, đứa được 05 tuổi. Mẹ của tôi nhận cháu về nuôi cho tới nay (hiện tại 02 cháu vẫn ở cùng bà ngoại, cha cháu không phụ nuôi). Năm 2015, cha cháu đã lập gia đình và đã bán toàn bộ số đất trên, cha cháu không chia cho 02 cháu phần nào.
Tôi muốn hỏi nếu tình huống như vậy thì cha cháu có bị bắt buộc phải chia đều cho 2 cháu không? Và tôi phải làm thế nào để có thể giúp cháu tôi đòi lại công bằng (vì cháu tôi còn nhỏ, chưa đủ 18 tuổi)? Nếu phải nhờ pháp luật can thiệp thì tôi cần làm những gì và ai sẽ đủ quyền đưa sự việc ra pháp luật giúp cháu? (Tùng Anh - Nam Định)
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, về thừa kế di sản.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu người để lại di sản không có duy chúc, tài sản của người đó sẽ được chia theo pháp luật.
Khi không có di chúc, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; (Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự). Trong trường hợp của chị gái bạn, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất là: Chồng, hai đứa con (một cháu 5 tuổi, một cháu 6 tuổi vào thời điểm thừa kế).
Những người thuộc hàng thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau (Khoản 2, Điều 676)điều đó có nghĩa là phần tài sản riêng của chị gái bạn trong khối tài sản chung hợp nhất cùng với chồng, hoặc tài sản riêng (nếu có) sẽ được chia đều cho ba người thuộc hàng thừa kế nhất đã nêu trên. Hai người cháu của chị có quyền được hưởng thừa kế một phần tài sản mà mẹ chúng để lại, pháp luật bảo vệ quyền này của các cháu.
Thứ hai, về việc chồng của chị gái của anh (chị) bán toàn bộ tài sản.
Vì hai cháu đều là trẻ vị thành niên, chưa đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật nên sau khi chị gái bạn chết, thì người giám hộ và đại diện hợp pháp của hai cháu nhỏ là bố của chúng.
Việc định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên được pháp luật quy định như sau:
- Trong trường hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con dưới mười lăm tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
- Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng; nếu định đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý của cha mẹ.
Định đoạt vì lợi ích của con ví dụ như: bán tài sản để lấy tiền phục vụ cho sinh hoạt, học tập của con. Như vậy, pháp luật không cấm cha mẹ được bán/chuyển nhượng tài sản của con.
Tuy nhiên, trong trường hợp này chồng của chị gái bạnbán toàn bộ số đất, có phần tài sản được thừa kế của hai con mình trong đó mà không chia cho con phần nào là việc làm phương hại đến quyền và lợi ích chính đáng của hai cháu.
Để giải quyết trường hợp này, bà ngoại của các cháu, người có quyền giám sát việc giám hộ có thể yêu cầuTòa án cấp huyện (nơi có bất động sản là di sản thừa kế) giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hai cháu.
Pháp luật quy định cụ thể trường hợp này tại điều 25, điều 33, điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011:
Điều 25Bộ luật Tố tụng Dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án như sau:
"1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này.
5. Tranh chấp về thừa kế tài sản".
Điều 33Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (Bộ luật Tố tụng dân sự) quy định thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh như sau:
"1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này".
Điều 35Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ như sau:
"1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản".
Cần lưu ý về thời hiệu khởi kiện về thừa kế quy định tại điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận