-->

Tư vấn pháp luật: Về ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu

Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn

Hỏi: Tôi có một người anh lấy vợ năm 2007, đến nay anh chị đã có một đứa con chung 4 tuổi. Nay vì anh tôi không còn tình cảm với chị nữa và tính cách không hợp nhau. Anh tôi muốn ly hôn nhưng chị không đồng ý. anh tôi nhất quyết ly hôn.Anh tôi phải làm những gì? Và khi giải quyết thì hết bao nhiêu thời gian? Anh tôi muốn chị nuôi con thì anh phải lam những gì? (Nguyễn Nam - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

I. Quyền yêu cầu ly hôn:

Theo quy định tại Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: ” Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn”.

Như vậy, trong trường hợp của anh bạn, anh bạn có quyền yêu cầu tòa giải quyết việc ly hôn của hai vợ chồng.

II. Căn cứ ly hôn:

Khoản 1, Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn: “Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn”. Vợ chồng chị gái bạn kết hôn nhưng chồng chị gái bạn đã bỏ nhà đi hơn 3 năm cho đến thời điểm hiện tại chưa về, như vậy là thời gian ly thân của vợ chồng chị gái bạn tương ứng với số thời gian chồng chị gái bạn bỏ đi, và chồng chị gái bạn cũng đã có con với người khác.

Như vậy, theo quy định điều luật ở trên tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh trai bạn là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định cho ly hôn. Vì vậy, bạn đơn phương xin ly hôn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết cho ly hôn.

III. Thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn:

Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thì tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Nơi cư trú của cá nhân là nơi cá nhân thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống.

Do vậy, để được tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bên nguyên đơn chứng minh được nơi bị đơn thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống, hoặc nơi người này làm việc. Nếu thấy bị đơn thay đổi địa chỉ, không còn cư trú hoặc làm việc tại địa phương nữa mà thực tế đang cư trú hoặc làm việc tại địa phương khác, tòa án đang thụ lý sẽ chuyển vụ án cho tòa án nơi bị đơn đang cư trú hoặc làm việc để tiếp tục giải quyết vụ án.

Do vậy, trong trường hợp cụ thể của bạn thì tòa án nơi anh đang ở không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa.Tòa án nơi cư trú của bị đơn ( nơi cư trú của vợ bạn ) mới có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, do bạn không biết rõ nơi cư trú của vợ bạn ở đâu nên rất khó xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Nếu bạn nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nơi bạn đang cư trú, Tòa sẽ không thụ lý giải quyết và trả lại đơn theo quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án ly hôn được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật thì nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ thuộc về các đương sự.

Vì vậy, bạn nên tìm kiếm nơi cư trú của chồng chị gái bạn và cung cấp thông tin cho Tòa án để giải quyết việc ly hôn được nhanh chóng, nếu trong quá trình tìm kiếm không đạt kết quả chị gái bạn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích, sau đó yêu cầu tòa án giải quyết cho ly hôn theo Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Khoản 2 Điều 89 quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.