-->

Tư vấn pháp luật về hợp đồng lao động

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn pháp luật về hợp đồng lao động.

Hỏi: Tôi ký hợp đồng làm việc với công ty ngày 20.5.2013 đến 20.5.1017. Cho tôi hỏi hợp đồng của tôi theo Bộ luật lao động có phải làm hợp đồng không xác định thời hạn không? Nay (ngày 16.11.2016) công ty yêu cầu tôi ký hợp đồng lao động mới có hiệu lực từ 2.11.2016 (hợp đồng có thời hạn đến 2.11.2021) mà nội dung hợp đồng mới không nói gì về việc tiếp tục hay thanh lý hợp đồng cũ thì có được xem hợp đồng cũ được thanh lý hay không? Lúc này tôi sẽ chịu trách nhiệm theo hợp đồng nào? Trong hợp đồng lao động có thỏa thuận về đền bù hợp hợp đồng nếu người lao động không thực hiện hết hợp đồng như hoàn trả lại 40% của tổng lương đã nhận của các năm và toàn bộ phụ cấp khác thì có vi phạm luật hay không? (Phùng Hạnh - Lào Cai)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất: Về vấn đề hai hợp đồng lao động.

Điều 22 BLLĐ quy định về loại hợp đồng lao động: "1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.3. Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác".

Theo thông tin chị cung cấp thì hợp đồng của chị là hợp đồng xác định thời hạn theo khoản điểm b khoản1 Điều 22 như trên. Theo đó thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian đủ từ 12 tháng đến 36 tháng. Như vậy, hết khoảng thời gian này thì hợp đồng thứ nhất đương nhiên chấm dứt hiệu lực. Và chỉ còn hợp đồng thứ hai còn hiệu lực pháp luật. Sau khi hợp đồng thứ nhất hết hiệu lực thì chị sẽ chịu trách nhiệm theo hợp đồng thứ 2.

Thứ hai: Về mức phạt thỏa thuận trong hợp đồng.

Còn về mức phạt ghi trong hợp đồng như chị cung cấp thì pháp luật chưa có quy định cụ thể về mức phạt tối đa khi người lao động không thực hiện hết hợp đồng.

Việc người lao động không thực hiện hết hợp đồng lao động thì đồng nghĩa với việc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. không thực hiện hết hợp đồng lao động không thuộc các trường hợp mà người lao động được quyền chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật như theo quy định tại điều 37 bộ luật lao động. có thể được coi là tự ý nghỉ việc, chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điều 41 bộ luật lao động

Khi đó trách nhiệm,nghĩa vụ của người lao độngsẽ được quy định tại điều 43 bộ luật lao động.

Việc công ty và người lao động thỏa thuận đền bù 40% của tổng lương sẽ không được pháp luật ghi nhận,trong trường hợp có tranh chấp và có sự tham gia của cơ quan có thẩm quyền khi đó quyền của người lao động sẽ được bảo vệ, không phải thực hiện nghĩa vụ đền bù 40% tổng lương cho công ty.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.