-->

Tư vấn pháp luật: công ty chấm dứt hợp đồng lao động không báo trước

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Bộ luật này

Hỏi: Hiện tại tôi đang làm việc cho Công ty từ 01/09/2013 đến nay, tôi làm nhân viên IT và đảm nhiệm thêm công việc của Bộ nhân sự cho Công ty, khoảng hơn 1,5 nămnay. Lúc đầu Công ty Tên là: Công ty TNHHXD Việt Úc, Giám Đốc là Ông A và vừa chuyển sang tên công ty TNHH StructuralsteelCo vào tháng 8/2016. Người đại diện pháp luật là Ông B. Tất cả nhân viên văn phòng đã chuyển sang làm công ty hiện tại nhưng chưa chuyển đổi hợp đồng lao động sang Công ty mới với, GPKD mới, nhưng Công ty TNHH XD Việt Úc vẫn chưa huỷ đăng ký Kinh doanh. 28/11/2016 tôi nhận được thông báo cho Tôi thôi việc sau 45 ngày nhưng không có lý do. Tôi cần phải làm như thế nào để được đảm bảo quyền lợi của mình. (Tô Hiến - Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Công ty không đưa ra lý do chấm dứt hợp đồng lao động đối với bạn. Bạn có thể khiếu nại đối với quyết định đó của công ty hoặc khởi kiện ra tòa án yêu cầu công ty phải chi trả số tiền do bạn phải nghỉ việc, các loại trợ cấp theo quy định của pháp luật

Trường hợp công ty không đưa ra lý chính đáng để có thể chấm dứt hợp đồng lao động đối với bạn, tức công ty thực hiện việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại điều 41 bộ luật lao động

Quy định tại điều 41 Bộ luật lao động:

"“Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Bộ luật này”

Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, nghĩa vụ của người sử dụng lao động được quy định tại điều 42 Bộ luật lao động

“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. 3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.”

Trường hợp khi tiến hành khiếu nại và khởi kiện đối với quyết định từ phía công ty đưa ra mà công ty đưa ra được lý do để chấm dứt hợp đồng lao động đối với bạn Trường hợp này bạn sẽ chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng quyền và lợi ích hợp pháp của bạn sẽ được pháp luật bảo vệ.

Bạn sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm tùy thuộc vào lý do mà phía công ty đưa ra là gì. Ngoài ra bạn sẽ được hoàn trả lại sổ bảo hiểm, các loại giấy tờ mà trước đó công ty đã giữ lại theo quy định của pháp luật

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.