Công ty Luật TNHH Everest tư vấn chia tài sản khi ly hôn.
Hỏi: Chúng tôi có 1 căn nhà và 1 lô đất nhưng chưa sang tên quyền sử dụng đất vì khi mua đất chỉ có giấy tờ viết tay chưa có công chứng, đất này là đất nông nghiệp thuộc quy hoạch nên vợ chồng tôi xây nhà chỉ làm được sổ tạm trú (KT3) thôi.Vậy khi ly hôn nếu chúng tôi không thỏa thuận phân chia tài sản này được, muốn nhờ tòa phân chia được không? Nếu vợ chồng tự thỏa thuận phân chia và chỉ có vợ chồng ký với nhau thì thỏa thuận đó có hợp pháp khi ra tòa không?Tài sản nhà và đất này chỉ chia cho vợ chồng thôihay chia làm 5 phần cho vợ, chồng và 3 con?Về nhà và đất chung chồng tôi muốn bán còntôi muốn giữ vậy tôi đưa tiền cho chồng (với số tiền là phần của chồng trừ đi khoảnnợ mà tôi mượn cho chồng) để giữ lại vậy có được không ?(chồng tôi muốn bán cho người ngoài).Chồng tôi muốn tôi ký vào đơn ly hôn nếu sau khi ly hôn mà sau này tôi đi lấy chồng mới hoặc chết thì tài sản hiện tại (tài sản theo thỏa thuận phân chia tài sản và tiền mặt trong tài khoản của tôi) phải được phân chia làm 4 phần bằng nhau cho tôi và 3 con và chồng tôi có quyền nuôi hết 3 con vậy cho tôi hỏi trong luật thì điều này có được không? (Thùy Nhung - Hải Dương)
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình: "Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết." Như vậy, nếu hai vợ chồng bạn không thể tự mình giải quyết được việc phân chia tài sảnthì có thể yêu cầu tòa án giải quyết khi ly hôn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật HNGĐ: "Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật". Đối với loại tài sản đăng kí quyền sở hữu như nhà, đất, ngoài việc lập thành văn bản việc phân chia, cả hai bên cùng kí vào thì phải tiến hành công chứng tại Phòng Công chứng cấp huyện. Như vậy, việc vợ chồng bạn chỉ kí vào văn bản phân chia với nhau thôi là chưa đủ căn cứ pháp lý để tòa án công nhận nếu sau này có tranh chấp xảy ra.
Đây được xếp vào loại tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng, do đó, khi ly hôn, tài sản này chỉ được chia cho hai vợ chồng bạn mà thôi.
Về tài sản là căn nhà do vợ chồng bạn cùng xây dựng sẽ được giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật HNGĐnhư sau:
"Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng".
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch." Căn cứ vào quy định này, việc chồng của bạn muốn bán lại phần tài sản là nhà đất cho người khác thì người được ưu tiên mua ở đây là bạn.
Về thông tin mà bạn cung cấp: "Chồng tôi muốn tôi ký vào đơn ly hôn nếu sau khi ly hôn mà sau này tôi đi lấy chồng mới hoặc chết thì tài sản hiện tại (tài sản theo thỏa thuận phân chia tài sản và tiền mặt trong tài khoản của tôi) phải được phân chia làm 4 phần bằng nhau cho tôi và 3 con và chồng tôi có quyền nuôi hết 3 con." Theo chúng tôi hiểu đây là điều kiện để chồng của bạn ký vào đơn ly hôn. Đây là một thỏa thuận trái pháp luật và không được pháp luật công nhận bởi vì theo quan điểm của pháp luật Việt Nam không coi hôn nhân là một loại giao dịch tài sản và ly hôn cũng vậy.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận