-->

Tư vấn giành quyền trực tiếp nuôi con và chia tài sản chung khi ly hôn

Luật sư tư vấn quyền nuôi con sau khi ly hôn...

Hỏi:Hôn nhân của chúng tôi đến nay đã được 14 năm. Chồng tôi công việc không ổn định, là người gia trưởng và giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực. Mọi chi phi sinh hoạt gia đình do tôi đảm nhiệm (tôi là một viên chức Nhà nước). Chồng tôi mở cửa hàng kinh doanh gas và cũng có thu nhập tương đối (đấy là anh ta khoe với khách và người thân anh ta) và coi thường đồng lương ít ỏi của tôi, nhưng tôi vẫn phải đảm nhiệm chi phí hầu hết mọi khoản. Anh ta mua đất nhưng không công khai với tôi (sợ phải chia), anh ta bảo tôi không có công trong đó. Chúng tôi có 02 con (01 trai 14 tuổi, 01 gái 04 tuổi). mọi chi phí cho 02 cháu, tôi là người phải chịu trách nhiệm. Do tôi không thể chịu đựng được cách ăn ở cư xử của anh ta với mẹ con tôi. Chúng tôi đã ly thân được 01 năm, 02 con hiện tôi nuôi ăn học. Nay chúng tôi quyết định ly hôn. Tôi Kính xin luât sư cho biết tôi có quyền được tiếp tục nuôi 02 cháu không? (Văn Anh - Phú Thọ)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

- Thứ nhất, về giành quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:Theo đó, các bên có tranh chấp về quyền trực tiếp nuôi hai con thì các bên đương sự phải chứng minh được điều kiện của mình có thể đáp ứng tốt nhất về mọi mặt cho hai con. Nếu chị chứng minh được mình có thể đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho hai con về mọi mặt so với người bố thì chị có thể sẽ giành quyền trực tiếp nuôi 2 con. Đối với người con 14 tuổi, tòa án sẽ xem xét tới nguyện vọng của đứa trẻ xem cháu muốn ở với ai.

Theo quy định, bên nào là người trực tiếp nuôi con thì bên còn lại sẽ có quyền thăm nom và thực hiện cấp dưỡng cho con. Mức cấp dưỡng phụ thuộc vào chi phí cơ bản đáp ứng điều kiện cần thiết cho con và khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Thứ hai, về việc chia tài sản chung của hai vợ chồng khi ly hôn

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Tài sản chung của vợ chồng

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Theo nguyên tắc, các tài sản được hình thành trong thời kì hôn nhân thì được coi là tài sản chung trừ trường hợp tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng hoặc tài sản được hình thành từ nguồn tài sản riêng.

Như vậy, đối với trường hợp của bạn, mảnh đất được mua bằng nguồn thu nhập hợp pháp của chồng trong thời kì hôn nhân thì được coi là tài sản chung của hai vợ chồng. Vì vậy, khi ly hôn chị hoàn toàn có quyền yêu cầu mảnh đất này. Theo nguyên tắctài sản chung sẽ được chia đôi, có tính tới công sức đóng góp của hai bên trong việc tạo lập, duy trì tài sản của hai bên đương sự và một số yếu tố khác.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.