-->

Tư vấn giải quyết nuôi con và chia tài sản khi ly hôn

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên...

Hỏi: Tôi và chồng tôi kết hôn năm 2008 và có với nhau 02 con. Cháu đầu 06 tuổi cháu thứ hai được 32 tháng tuổi. Tôi và chồng tôi đã sống ly thân 03 năm 04 tháng, cho tới giờ tôi nhận được giấy thụ lý của tòa án gửi về việc nuôi con và chia tài sản. Ngôi nhà hiện tôi ở được tạo dựng trên đất bố mẹ chồng tôi sang tên cho 02 vợ chồng. Chồng tôi đã ngoại tình khi 02 vợ chồng bắt đầu làm nhà năm 2011 và bỏ nhà đi với cô gái khác, đầu năm 2012 thì anh về và xin tha thứ tôi cũng coi như không có chuyện gì vì con nhưng sau hơn 01 tháng anh lại bỏ nhà đi khi đó cũng là lúc tôi mang bầu cháu thứ 2 và sống với 01 cô gái khác hiện cả 02 đều có con riêng. Vậy tôi có được quyền nuôi 02 con tôi và sống trong căn nhà mà tôi đang ở không? (Phùng Phượng - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp thì chồng bạn đã nộp đơn đơn phương xin ly hôn tới Tòa án có thẩm quyền. Tòa án thụ lý và sẽ giải quyết việc nuôi con và chia tài sản của vợ chồng.

Thứ nhất, việc nuôi con sau khi ly hôn.Luật hôn nhân và gia đình quy định:Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Con thứ hai của vợ chồng bạn được 32 tháng tuổi sẽ do bạn trực tiếp nuôi sau khi ly hôn. Con đầu của vợ chồng bạn chưa đủ 7 tuổi nên không thể căn cứ vào nguyện vọng của con mà sẽ căn cứ vào điều kiện của vợ và chồng trên nguyên tắc có lợi nhất cho sự phát triển của trẻ. Theo đó, các vấn đề có thể được xem xét như: mặt vật chất (công việc, tiền lương, tiền công,…), mặt tinh thần (đạo đức, tình cảm, thời gian trông nom, chăm sóc con,…).Để có thể được quyết định cho nuôi con, bạn phải chứng minh điều kiện nuôi con của bạn tốt hơn cho con so với chồng bạn.

Thứ hai, về chia tài sản là ngôi nhà.Theo thông tin bạn cung cấp, mảnh đất bạn xây nhà trên đó là của bố mẹ sang tên cho hai vợ chồng, như vậy, mảnh đất này thuộc sở hữu của cả hai vợ chồng. Khi ly hôn, giá trị mảnh đất sẽ được chia đôi. Về ngôi nhà trên đất, nếu được xây dựng bằng nguồn tài sản chung của vợ chồng thì giá trị ngôi nhà cũng sẽ được chia đôi. Nếu bạn chứng minh được bạn xây nhà bằng tài sản riêng của bạn (được tặng cho riêng, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,…) thì ngôi nhà sẽ thuộc quyền sở hữu của bạn, nếu không chứng minh được thì xác định là tài sản chung của vợ chồng.Bạn muốn sống trong ngôi nhà đang ở thì khi ly hôn, bạn phải thanh toán cho chồng bạn một nửa giá trị quyền sử dụng mảnh đất và phần giá trị tài sản được xác định là của chồng bạn trong việc xây dựng ngôi nhà (nếu chồng bạn có đóng góp).

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.