-->

Tội làm nhục người khác được quy định như thế nào?

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn quy định của pháp luật về tội làm nhục người khác.

Hỏi: Gia đình tôi sống rất hạnh phúc và êm ấm, nhưng mấy ngày gần đây 2 vợ chồng nhà bên đối diện không biết có chuyện gì, mà cô vợ luôn chửi và lăng mạ tôi, vu khống cho tôi cặp bồ và đi nhà nghỉ với chồng bà ta. Tôi rất bức xúc để chứng minh cho sự trong sạch và hạnh phúc gia đình tôi. Luật sư cho tôi biết tôi phải kiện như thế nào, và cơ quan nhà nước nào giải quyết được cho tôi? (Lâm Như Hải - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về Tội làm nhục người khác như sau: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.

Như vậy, trường hợp những thông tin mà người phụ nữ đó lan truyền không đúng sự thật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của bạn thì bạn có quyền tố giác tội phạm tới cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu khởi tố vụ án hình sự về Tội làm nhục người khác theo quy điịnh tại Điều 121 Bộ luật hình sự.

Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Theo đó, bạn có thể tố giác tội phạm tới một trong các cơ quan trên để được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.