-->

Tòa án tính mức hình phạt như thế nào với đồng phạm tội trộm cắp tài sản?

Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hỏi: Em có người anh trai bị đám bạn rủ rê đi trộm tiền công ty nhưng anh em chỉ là người được đám bạn đó cho thôi. Trong khi đó có 11 người và toà án lại cộng lại tất cả số tiền lại và phán trong đó anh em là người được cho 33 triệu đồng. Còn mấy người kia thì 100tr 7.8 chục nhưng tòa phán anh em 10 đến 13 năm tù. Nhưng em thắc mắc tại sao Toà án lại tính chung lại số tiền rồi cho anh em là án 10 năm tù trong khi anh em không phải người lấy, cũng là người nhận được ít tiền hơn mà án lại bằng mấy người kia. Như vậy em có phải làm đơn kháng án không? (Thanh Hải - Bắc Ninh)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Trường hợp này, Anh của bạn bị Tòa án hình sự xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự:

"Điều 138. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

....

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng."

Và với vai trò đồng phạm được quy định tại điều 20 Bộ luật hình sự:

"Điều 20. Đồng phạm

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm."

Và việc quyết định hình phạt phải theo quy định tại điều 45 Bộ luật hình sự:

"Điều 45. Căn cứ quyết định hình phạt

Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự."

Theo quy định này thì không phân biệt là giá trị tài sản mà anh của bạn nhận bao nhiêu mà Tòa án chỉ căn cứ vào: quy định của Bộ luật hình sự; tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tất cả những người tham gia vào việc phạm tội; nhân thân của những người đó; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các tình tiết khác và vai trò đồng phạm mà Anh của bạn tham gia cùng với nhóm người phạm tội đó.

Do đó, theo suy nghĩ của bạn là vì anh của bạn được chia ít mà bị phạt nặng là không phải quy định của pháp luật như thế. Tuy nhiên về vai trò đồng phạm và nhân thân về anh của bạn chúng tôi không được rõ, Nhưng nêu đúng là anh của bạn chỉ được rủ đi với vai trò mờ nhạt hoặc không thạm gia và việc trộm cắp thì bạn có thể gặp anh ấy để tư vấn cho anh ấy làm đơn kháng cáo phần bản án đối với anh ấy. Lưu ý: Bạn không có quyền kháng cáo, người kháng cáo sẽ là anh của bạn.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.