-->

Thừa kế quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người nước ngoài

Người để lại tài sản thừa kế mang quốc tịch Mỹ, do vậy việc chia thừa kế sẽ được áp dụng pháp luật của Mỹ, tuy nhiên đối với căn nhà ở Việt Nam sẽ áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam để giải quyết.

Hỏi: Năm 2008, Tôi là người Việt Nam có lấy chồng quốc tịch Mỹ, có làm giấy đăng ký kết hôn ở Việt Nam, nhưng không có làm giấy chứng nhận của cải riêng ở Việt Nam và bên Mỹ.

- Năm 2010, tôi có mua căn hộ do tôi một mình đứng tên chủ quyền, chồng tôi gửi tiền về mua nhà.Khi còn sống bên Mỹ, chồng tôi có viết giấy di chúc cho tôi được quyền cho thuê tất cả các tài sản bên Mỹ để sinh sống (không có ghi căn nhà ở Việt Nam vì chồng tôi nghĩ đã cho riêng tui rồi), khi nào tôi mất thì tòan bộ tài sản ở bên Mỹ con riêng của chồng tôi mới được toàn quyền sử dụng.

- Năm 2015 chồng tôi mất, theo luật thì 2 con riêng của chồng tôi người Mỹ có được chia tài sản là căn nhà riêng của tôi bên Việt Nam không? Có quyền được bán chia tài sản là căn nhà đó của tôi không? Vì tiền mua nhà là của chồng tôi nhưng tài sản là tôi đứng tên sở hữu một mình.

- Hiện giờ tôi ở bên Mỹ nhưng vẫn mang quốc tịch Việt Nam chưa vào quốc tịch Mỹ.

Nếu tôi muốn bán có cần nói với 2 người con riêng của chồng tôi hay không? quy định thế nào? (Vĩnh An - Quảng Ninh)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Thời điểm bạn mua nhà tại Việt Nam là năm 2010, theo quy định tại Nghị quyết 19/2008/NQ – QH, thời điểm này người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam, nếu đang sinh sống tại Việt Nam, được cấp phép cư trú từ 12 tháng trở lên thì được quyền mua nhà và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

Tuy nhiên, tại thời điểm đó chồng bạn đang ở Mỹ và không cư trú tại Việt Nam. Do vậy, không được phép mua nhà và sở hữu nhà ở tại Việt nam.

Do trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở chỉ ghi tên của bạn, theo quy định tại khoản 3 Điều 33, khoản 2 Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản được xác lập trong thời kỳ hôn nhân nhưng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của một người, nếu chứng minh được tài sản đó được tạo lập bằng tài sản riêng của bạn thì ngôi nhà ở Việt Nam được coi là thuộc quyền sở hữu riêng của bạn, bạn có quyền chuyển nhượng nhà mà không cần sự đồng ý của hai người con riêng của chồng. Trường hợpkhông chứng minh được thì là tài sản chung của vợ chồng.

Trường hợp bạn không chứng minh được tài sản đó được xác lập bởi tài sản riêng của mình, nhưng do chồng bạn không được mua nhà và sở hữu nhà ở tại Việt Nam do vậy không được ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu mà chỉ được chia một phần giá trị ngôi nhà trên. Hiện tại chồng bạn đã chết, về nguyên tắc một phần giá trị ngôi nhà tại Việt Nam thuộc di sản thừa kế, do vậy sẽ được chia cho những người thừa kế.

Người để lại tài sản thừa kế mang quốc tịch Mỹ, do vậy việc chia thừa kế sẽ được áp dụng pháp luật của Mỹ, tuy nhiên đối với căn nhà ở Việt Nam sẽ áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam để giải quyết.

Do hai người con riêng của chồng bạn mang quốc tịch Mỹ và đang thường trú tại Mỹ, do vậy không thuộc trường hợp được sở hữu nhà ở theo quy định của Luật nhà ở. Theo đó, hai người con riêng này chỉ được chia 1 phần giá trị tài sản ngôi nhà trên theo quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế.

Bạn muốn bán ngôi nhà trên thì phải được sự đồng ý của 2 người con riêng của chồng bạn, hoặc sau khi bạn thanh toán giá trị mà hai người con riêngđược hưởng theo quy định.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.