-->

Phải làm gì khi hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế?

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Hỏi: Nếu một vụ kiện dân sự chưa xử mà cứ trì hoãn kéo dài thì sẽ đến một thời gian nào đó sẽ hết hiệu lực vụ kiện đó. Vậy có đúng không? Tôi rất lo, do tôi có một vụ kiện liên quan đến thừa hưởng tài sản do ông tôi để lại là căn nhà (có di chúc do ông để lại nhưng bản gốc bị trộm mất).Vì vậy có tranh chấp giữa các thành viên khác đòi chia căn nhà, tôi có đưa ra bản sao có công chứng nhưng họ bảo là giả. Vì vậy tôi mới yêu cầu ra tòa để chứng minh bản sao tờ di chúc của tôi là thật hay giả nhưng đã hơn 3 năm rồi vẫn chưa xử, tháng 3 năm ngoái tòa yêu cầu đóng án phí và tôi đã thực hiện đầy đủ mọi yêu cầu của tòa nhưng vẫn là chờ. Kính mong luậttư vấn cho tôi, nếu điều đó xảy ra (hết thời hạn khởi kiện) tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình? (Trần Hiếu - Hòa Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Theo quy định của Bộ luật dân sự thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế:

Điều 645.Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."

Và theokhoản2.4Phần I Nghị quyết02/2004/NQ-HĐTP:

"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản."

Như vậy, theo quy định trên thì khi đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế mà các bên có tranh chấpthì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

(Đối với trường hợp của bạn là tranh chấp về thừa kế thì thời hạn chuẩn bị xét xử là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Nếuvụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị Xét Xử, nhưng không quá hai tháng nên thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa với vụ việc này là 6 tháng.

Căn cứ điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự:

Điều 179. Thời hạn chuẩn bị xét xử

"1. Thời hạn chuẩn bị Xét Xử các loại vụ án được quy định như sau:

a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối vớivụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị Xét Xử, nhưng không quá hai thángđối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

2. Trong thời hạn chuẩn bị Xét Xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Tòa án ra một trong các quyết định sau đây:

a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;

b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;

c) Đình chỉ giải quyết vụ án;

d) Đưa vụ án ra Xét Xử.

3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra Xét Xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng."

Điều 180. Nguyên tắc tiến hành hòa giải

"1. Trong thời hạn chuẩn bị Xét Xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này.

2. Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:

a) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;

b) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức Xã hội."

Nếu vụ án này rơi vào trường hợp không được hòa giải theo điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự:

"1. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.

2. Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức Xã hội."

Theo đósẽ không có thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà trong thời hạn chuẩn bị xét xửđó hoặc khi hết thời hạn chuẩn bịxét xửTòa án sẽ ra một trong các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoặc đưa vụ án ra xét xử. Nếu có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn mở phiên tòa tối đa 2 tháng.

Dobạn đã thực hiện thủ tục đóng tiền án phí từ tháng 3 năm ngoáithì có nghĩa là vụ án đã được thụ lý nhưngchưa được giải quyết. Nếu quá thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn mở phiên tòa theo quy định mà tòa án không giải quyết vụ việcthì bạn có thể khiếu nại vấn đề này.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.