-->

Mẹ đẻ có được hưởng di sản thừa kế do con trai để lại không?

Theo Khoản 1 Điều 676 Luật dân sự 2005 quy định hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

Hỏi: Sau khi bác trai tôi (anh ruột của bố tôi) lấy vợ,ông bà nội tôi có tách bìa đỏ cho bác trai tôi và sổ đỏ được đứng tên bác trai. Năm 2001 bác trai mất không để lại di chúc. Đến năm 2012 bác gái mang sổ đỏ mang tên bác trai cho người khác mượn đi thế chấp. Đề nghị Luật sư tư vấn, giờ bà nội tôi muốn đòi quyền thừa kế mảnh đất có được không? Bác trai và bác dâu cũng không có con chung, con riêng và con nuôi, giờ bác đang sống một mình. (Kim Thoa - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Theo như anh (chị) trình bày thì ông bà anh (chị) tách bìa đỏ cho bác trai bạn sau khi bác lấy vợ; do đó, nếu ông bà anh (chị) không có giấy tờ chứng minh là phần đất đó ông bà tặng riêng cho bác trai anh (chị) thì đây được coi là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, về nguyên tắc khi bác trai anh (chị) chết thì di sản của bác trai anh (chị) để lại là 1/2 mảnh đất ông bà đã sang tên cho bác trai anh (chị) . Do bác trai anh (chị) chết không để lại di chúc nên di sản trong trường hợp này sẽ được chia theo pháp luật theo quy định tại Điều 676 BLDS 2005 như sau:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

Theo quy định trên những người có quyền thừa kế di sản của bác trai anh (chị) đó là: ông anh (chị) (nếu còn sống), bà và bác dâu anh (chị)

Mặt khác, Điều 645 Bộ luật Dân sự có quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế:

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Như vậy, trong trường hợp này, thời hiện khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản đã hết; do đó bà anh (chị) sẽ không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế nữa.

Tuy nhiên, theo khoản 2.4 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP có quy định về việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:

"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".

Như vậy, bà và bác dâu anh (chị) có thể chọn một trong hai cách sau để đảm bảo quyền lợi của các bên:

- Cách 1: Họp mặt những đồng thừa kế để thỏa thuận các nội dung như: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; Cách thức phân chia di sản (Điều 681 Bộ luật Dân sự). Các bên có thể cùng nhau đến tổ chức công chứng trên địa bàn nơi có bất động sản để yêu cầu chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, để thực hiện theo cách này thì phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng thừa kế.

- Cách 2: Khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung: Để khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung thì các đồng thừa kế phải có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia. Khi có văn bản xác nhận có chữ ký của tất cả các đồng thừa kế thì di sản do người chết để lại chuyển thành tài sản chung của các thừa kế và Tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.