-->

Làm thế nào để nhận biết được tội vu khống?

Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

Hỏi: Bên A đã kích bên B bằng lời lẽ xúc phạm đến danh dự của bên B nên giữa A và B có xảy ra cãi vã. Sau đó bên A dùng hung khí chém bên B gây thương tích ở tay và đầu ( làm bên B mất khả năng lao động khoảng hơn một tháng do vết thương sâu, sưng phù), bên B có giằng co với bên A để lấy lại hung khí nhưng không được. Sau đó mọi người đưa B đi sơ cứu, may lại vết thương. Sau đó bên A tự đi nhập viện và đã làm đơn tố cáo bên B về việc cố ý gây thương tích, tự ý xâm phạm nhà A bất hợp pháp ( trong khi đó bên B không vào nhà bên A). Xin hỏi trong trường hợp này thì bên nào đúng bên nào sai, nếu đưa ra Tòa thì bên nào sẽ thắng ạ. Bên B có thể tố cáo bên A tội vu khống được không ạ? (Thị Tình - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

- Theo như những gì anh trình bày ở trên thì anh B bị bên A dùng những lời lẽ xúc phạm và dùng hung khí đánh vào tay và đầu, việc bên B giằng co với bên Achỉ để lấy lại hung khí mà không có hành vi cố ý gây thương tích cho bên A thì bên B không phạm tội cố ý gây thương tích.

- Nếu bên B bị bên A gây tổn hại sức khỏe trên 11% hoặc dưới 11% mà thuộc một trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộluật Hình sự:

"Điều 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân..."

thì bên B hoàn toàn có thể tố cáo bên A về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác.

- Do bên B không có xâm phạm chỗ ởA bất hợp pháp nên bên A đã phạm tội vu khống cho bên B theo điều122 BLHS:

"Điều 122. Tội vu khống

1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với nhiều người;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người thi hành công vụ;

e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

Như vậy, bên B hoàn toàn có thể kiện bên A vềtội vu khống.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.