Thanh toán nợ trong hợp đồng mua bán được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005.
Hỏi: Tôi có vấn đề nợ khó đòi trong thanh toán hợp đồng mua bán với một đối tác sau khi hòa giải thành công và đã đến giai đoạn thi hành án như biên bản. (Đính kèm). Đến nay, tôi chưa thu hồi được bất kỳ khoản nào như đã thỏa thuận trong biên bản. Do thường xuyên công tác ở tỉnh xa nên không có thời gian yêu cầu tất toán hết khoản nợ trên và bên nợ cũng không có thiện chí hoàn thành nghĩa vụ thanh toán số nợ nên tôi nhờ luật sư tư vấn một số điểm sau: 1) Hiệu lực biên bản trên còn thời hạn không; nếu còn, bên nợ phải có cam kết nghĩa vụ pháp lý như thế nào để thanh toán một lần hay từng phần số nợ trên ? Nếu không còn thời hiệu pháp luật thì tôi có thể tiến hành bước tiếp theo ra sao để yêu cầu bên nợ thanh toán hết phần nợ? 2) Tôi có thể ủy quyền cho 1 người khác nhân danh trách nhiệm pháp luật và chuyển quyền sở hữu từ tôi đối với số nợ trên để tiếp tục xử lý hay không? (Đỗ Vũ An - Hà Nội).
Luật gia Vương Tùng Anh - Tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:
Bạn có trình bày, hai bên hòa giải thành và đã tới thời điểm thực hiện thỏa thuận nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nội dung cam kết. Tuy nhiên, bạn chưa cung cấp các bên hòa giải tại đâu, và biên bản hòa giải thành đã được TAND ra quyết định công nhận theo quy định tại Điều 186, 187 BLTTDS 2004 hay chưa? Đối với trường hợp các bên hòa giải tại TAND quận, huyện; sau khi hòa giải thành cơ quan này căn cứ vào biên bản ra quyết định công nhận thì quyết định có hiệu lực ngay và buộc đương sự phải thực hiện. Trường hợp bên phải thực hiện nghĩa vụ không thực hiện, bạn có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cùng cấp can thiệp để giải quyết.
Tiếp theo, nếu khoảng cách địa lý không cho phép, bạn có quyền ủy quyền lại cho người khác để trực tiếp tham gia vào quá trình thi hành án. Hai bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng ủy quyền, có công chứng hoặc chứng thực để người được ủy quyền thay mặt bạn làm việc với bị đơn và cơ quan thi hành án.
Điều 581 BLDS 2005 quy định về hợp đồng ủy quyền: " Hợp đồng ủy quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định".
Điều 582 BLDS 2005 quy định về thời hạn ủy quyền: "Thời hạn ủy quyền do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thoả thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền".
Điều 584 BLDS 2005 quy định về nghĩa vụ của bên được ủy quyền:"Bên được ủy quyền có các nghĩa vụ sau đây: 1. Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó; 2. Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền; 3. Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền; 4. Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền; 5. Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; 6. Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này".
Điều 587 BLDS 2005 quy định về quyền của bên ủy quyền: "Bên ủy quyền có các quyền sau đây: 1. Yêu cầu bên được ủy quyền thông báo đầy đủ về việc thực hiện công việc ủy quyền; 2. Yêu cầu bên được ủy quyền giao lại tài sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc ủy quyền, nếu không có thoả thuận khác; 3. Được bồi thường thiệt hại, nếu bên được ủy quyền vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 584 của Bộ luật này".
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận