Giao dịch phát sinh tư lợi và giao dịch có giá trị lớn trong Luật doanh nghiệp

Trong quá trình quản trị nội bộ của các doanh nghiệp, chức danh giám đốc là chức danh quản lý được bổ nhiệm nhằm thay mặt cho chủ sở hữu doanh nghiệp điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty.

Giám đốc có thẩm quyền ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của các cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong doanh nghiệp như: Hội đồng thành viên với công ty trách nhiệm hữu hạn, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần. Đây là những giao dịch có giá trị lớn (thông thường là hơn 35% hoặc 50% tổng tài sản của doanh nghiệp trong báo cáo tài chính gần nhất) hoặc giao dịch đối với những đối tượng có mối liên hệ nhất định với doanh nghiệp nên có khả năng phát sinh tư lợi cho đối tượng đó.

Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198


Cả hai loại giao dịch này đều có thể gây ra những thiệt hại về tài chính nhất định cho doanh nghiệp, thậm chí có thể đặt doanh nghiệp vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản. Do vậy, việc quyết định tham gia giao dịch không thể thuộc về giám đốc mà cần phải có sự đồng thuận của một tập thể là những chủ thể đã đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp hoặc có trình độ chuyên môn phù hợp với ngành nghề đăng ký doanh nghiệp. Điều này mới có thể đảm bảo phòng, tránh rủi ro, hạn chế tối đa tổn thất cho doanh nghiệp quyết định trở thành một bên của những giao dịch đó.

Thứ nhất, quy định về thẩm quyền quyết định việc giao kết hợp đồng có giá trị lớn trong doanh nghiệp


Về vấn đề này, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cụ thể như sau: Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn 02 thành viên thì: Hội đồng thành viên có thẩm quyền quyết định thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty.Trong khi đó, thẩm quyền quyết định “thông qua hợp đồng vay, cho vay và các hợp đồng khác do Điều lệ công ty quy định có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty” “quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty” thuộc về chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức. Bên cạnh đó, trong công ty cổ phần thì: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác.

Như vậy, quyền quyết định một số giao dịch có giá trị lớn trong doanh nghiệp đều thuộc về cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong tổ chức đó hoặc là chủ sở hữu của tổ chức đó mà không thuộc về chức danh giám đốc. Việc căn cứ vào giá trị của giao dịch để phân cấp thẩm quyền quyết các giao dịch như trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 là thực sự cần thiết và hợp lý bởi lẽ khi giá trị của các giao dịch lớn đến một giới hạn nhất định thì tiềm ẩn vô vàn rủi ro đối chủ thể thực hiện giao dịch, thậm chí có thể gây ra tình trạng mất khả năng thanh khoản dẫn đến phá sản doanh nghiệp nếu như giao dịch đó bị đổ vỡ.

Do đó, việc để cho một chủ thể là giám đốc quyết định vấn đề có tính chất sống còn đối với doanh nghiệp là hết sức mạo hiểm, không đảm bảo hệ số an toàn trong kinh doanh. Vì vậy, cần có một cơ chế kiểm soát tập thể của các cơ quan tối cao như Đại hội đồng cổ đông với công ty cổ phần hay Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các quy định của pháp luật về cùng một vấn đề đối với các loại hình doanh nghiệp trên đây có thể thấy một số điểm bất hợp lý như sau:

Một là, khi liệt kê các giao dịch có giá trị lớn cần sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất trong công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn một và hai thành viên trở lên không có sự thống nhất. Trong khi đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, các giao dịch được đề cập trong Luật Doanh nghiệp hiện có “quyết định vay, cho vay, đầu tư, bán tài sản có giá trị...” thì trong công ty cổ phần, chỉ có hai giao dịch được quy định là “quyết định đầu tư, bán tài sản có giá trị…”.

Như vậy, dụng ý của các nhà làm luật trong trường hợp này là có hai yếu tố dẫn đến nhu cầu phải kiểm soát giao dịch từ phía cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong doanh nghiệp là giá trị và hình thức biểu hiện của giao dịch. Trong hai yếu tố này thì yếu tố giá trị mang tính tĩnh còn yếu tố hình thức biểu hiện là yếu tố mang tính động vì nó biến đổi theo sự sáng tạo của thương nhân. Do đó, kỳ vọng kiểm soát được các yếu tố mang tính động bằng quy định của pháp luật gần như là không thể thực hiện được đặc biệt trong bối cảnh hệ thống pháp luật thành văn như ở Việt Nam.

Trong khi đó, việc thiết kế cơ chế kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong doanh nghiệp đối với những giao dịch dạng này là xuất phát từ giá trị của giao dịch - yếu tố có thể ảnh hưởng đến an toàn tài chính, sự sống còn của doanh nghiệp mà không phụ thuộc vào hình thức biểu hiện của giao dịch là dạng hành vi nào. Do vậy, không có lý do gì để thiết kế khác nhau về hình thức biểu hiện của giao dịch cần kiểm soát đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần như trong Luật Doanh nghiệp hiện hành. Thêm vào đó, sử dụng phương pháp liệt kê các dạng giao dịch trong trường hợp này cũng không thực sự phù hợp bởi lẽ điều này sẽ làm cho cơ chế kiểm soát luôn lỗi thời so với sự phát triển của thực tiễn.

Hai là, trong các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về việc kiểm soát các giao dịch lớn chỉ đề cập đến thẩm quyền và trình tự kiểm soát mà không đề cập đến hậu quả pháp lý trong trường hợp giao dịch được thiết lập nhưng không tuân thủ thực hiện quy trình kiểm soát này. Điều này gây ra những khó khăn trong thực tiễn như sau:

(-) Nếu trên thực tế giám đốc trong doanh nghiệp tự mình giao kết một giao dịch có giá trị lớn mà không thông qua cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì hậu quả pháp lý đối với trường hợp này là như thế nào? Hiệu lực của hợp đồng này ra sao? Đây thực sự là một vấn đề hóc búa khi cơ sở pháp lý để giải quyết đối với trường hợp này chưa được ghi nhận. Từ đó, sẽ dẫn đến tình trạng chủ thể có thẩm quyền quyết định thực sự trong tình huống này - cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong doanh nghiệp không có cơ chế để xử lý chủ thể vi phạm (giám đốc) cũng như bảo về lợi ích hợp pháp chính đáng của mình nói riêng và của doanh nghiệp nói chung.

(-) Nếu tình huống trên đây nảy sinh tranh chấp và các bên trong giao dịch yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp vào cuộc thì thực tế là cơ quan này cũng sẽ hết sức lúng túng trong việc giải quyết thỏa đáng quyền lợi của các bên.

(-) Việc không đề cập đến hậu quả pháp lý trong Luật Doanh nghiệp như trên cũng thể hiện sự thiếu quan tâm đến lợi ích chính đáng đối với đối tác của doanh nghiệp nghĩa là bên còn lại của giao dịch. Nếu trong trường hợp họ hoàn toàn khách quan, vô tư, thiện chí tham gia giao dịch thì việc doanh nghiệp không tiến hành quy trình kiểm soát sẽ ảnh hưởng thế nào đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ? khi họ không dễ dàng để có thể xác định được nội bộ doanh nghiệp đã thực hiện quy trình hay chưa?

Để khắc phục những hạn chế, tồn tại như đã đề cập trên đây, cần có sự sửa đổi nhất định đối với quy định về kiểm soát giao dịch lớn trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần của pháp luật hiện hành.

Cụ thể: Trước hết về các hình thức biểu hiện của giao dịch cần phải kiểm soát, có thể lựa chọn một trong hai cách khắc phục như sau:

Ba là, dỡ bỏ toàn bộ các quy định về biểu hiện của giao dịch được liệt kê trong các Điều 56, 75 và 135 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 (vay, cho vay, bán, đầu tư) và chỉ cần quy định theo hướng “các giao dịch có giá trị từ 35% hoặc 50% giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất cần có sự thông qua của Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần”. Hai là, giữ nguyên quy định hiện hành về việc liệt kê các hình thức biểu hiện giao dịch nhưng bổ sung thêm hai hình thức “cho vay và vay” trong quy định của Điều 82 đối với công ty cổ phần. Sự sửa đổi này sẽ tạo ra sự thống nhất trong cách thiết kế quy định pháp luật về cùng một vấn đề ở các doanh nghiệp khác nhau.

Tiếp theo, trong các Điều 56, 75 và 135 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cần phải bổ sung hậu quả pháp lý trong trường hợp giao dịch được giao kết mà vi phạm quy trình kiểm soát. Có thể bổ sung theo một trong hai hướng như sau: (i) Quy định hậu quả pháp lý cho trường hợp này là hợp đồng có thể bị vô hiệu (tương tự như vi phạm quy trình kiểm soát đối với giao dịch có khả năng phát sinh tư lợi). (ii) Quy định hậu quả pháp lý hợp đồng vẫn phát sinh hiệu lực nhưng phát sinh với chủ thể trực tiếp giao kết hợp đồng mà không phát sinh hiệu lực với doanh nghiệp (tương tự như hậu quả pháp lý đối với trường hợp giao kết hợp đồng khi không có thẩm quyền đại diện trong Bộ luật Dân sự năm 2015) có tính đến lợi ích hợp pháp của chủ thể còn lại của giao dịch bằng cách quy định cách thức hành xử của họ tuỳ thuộc vào sự khách quan, ngay thẳng của họ khi tham gia giao dịch.

Thứ hai, quy định về quy trình kiểm soát các giao dịch có khả năng phát sinh tư lợi


Trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, thẩm quyền quyết định việc ký kết hợp đồng thông thường thuộc về giám đốc và với những hợp đồng có giá trị lớn (trên 50% tổng giá trị ghi trong báo cáo tài chính gần nhất) thì cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong các doanh nghiệp mới xem xét quyêt định. Tuy nhiên, có những giao dịch mặc dù có giá trị không lớn, nhưng được ký kết với các chủ thể có liên quan đặc biệt (có khả năng phát sinh tư lợi) thì giám đốc không được tự mình quyết định mà phải được sự chấp thuận, thông qua của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị… như là một điều kiện để những hợp đồng đó phát sinh hiệu lực pháp luật. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã thiết kế cơ chế kiểm soát đối với những hợp đồng nêu trên trong một số các điều luật khác nhau đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau.

Cụ thể, nội dung về vấn đề kiểm soát này được ghi nhận trong Điều 67, Điều 86, Điều 162 đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty cổ phần. Mặc dù được thiết kế dành cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng tựu chung lại các quy định trên đều đề cập đến những nội dung như: Xác định trường hợp hợp đồng cần phải có sự kiểm soát, chủ thể có thẩm quyền kiểm soát, trình tự thủ tục kiểm soát và hậu quả pháp lý trong trường hợp các hợp đồng trên không được giao kết theo đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, việc thiết kế các điều luật với nội dung như đã đề cập là vô cùng cần thiết để đảm bảo các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp và các chủ thể có mối liên hệ nhất định với doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan, minh bạch và xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp mà không trở thành một cơ hội để “rút ruột” doanh nghiệp của các chủ thể có “vai vế” nhất định trong tổ chức này. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ thực tiễn, nội dung của Điều 67, Điều 86 và Điều 162 lại có những điểm bất cập, chưa thực sự hợp lý như sau:

Một là, ngay trong cách đặt tên của các điều luật là “hợp đồng, giao dịch phải được Hội đồng thành viên chấp thuận” (Điều 67) hoặc “hợp đồng, giao dịch của công ty với những người có liên quan” (Điều 86) hoặc “hợp đồng, giao dịch của công ty phải được Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông chấp thuận” (Điều 162) đã là một sự bất hợp lý. Bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 giao dịch bao gồm hai loại là “hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng” vậy trong trường hợp này, các quy định liệt kê cả “hợp đồng và giao dịch” là nhằm đề cập đến đối tượng cần phải kiểm soát bao gồm cả “hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương”. Tuy nhiên, hành vi pháp lý đơn phương là một loại giao dịch chỉ đề cập đến ý chí của một chủ thể, trong khi đó hợp đồng là loại giao dịch đề cập đến hành vi của ít nhất là hai chủ thể trở lên. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 67, 86 và 162 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 hướng tới giao dịch gồm ít nhất hai chủ thể trở lên, do đó, trong tên gọi của những điều luật trên dùng thuật ngữ “giao dịch” là không cần thiết. Ở đây, chỉ cần dùng thuật ngữ “hợp đồng” là đủ truyền tải nội dung cũng như mục đích của việc thiết kế những quy định trên.

Hai là, mặc dù tên gọi của các điều luật nêu trên đề cập đến “hợp đồng” nhưng nội dung cụ thể được triển khai trong từng điều luật lại đề cập đến “dự thảo” hợp đồng khi quy định về trình tự, thủ tục kiểm soát hợp đồng như sau: “Người ký kết hợp đồng, giao dịch phải gửi thông báo cho các thành viên Hội đồng thành viên, kiểm soát viên về các đối tượng có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó, kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung chủ yếu của giao dịch dự định tiến hành” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (Điều 67) hoặc “người đại diện theo pháp luật của công ty phải gửi cho Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc và kiểm soát viên; đồng thời, niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung giao dịch đó” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Điều 86) và “người đại diện theo pháp luật hoặc Hội đồng quản trị trình dự thảo hợp đồng hoặc nội dung chủ yếu của giao dịch cho Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông” quyết định tùy theo giá trị của hợp đồng đối với công ty cổ phần (Điều 162).

Điều này đã dẫn đến những lúng túng, khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp khi thực hiện trình tự, thủ tục kiếm soát đối với những hợp đồng này. Sở dĩ như vậy là bởi vì trong quá trình đàm phán và giao kết hợp đồng, các bên trong hợp đồng có thể phải trao đổi vô cùng nhiều các loại giấy tờ, văn bản để có thể đi đến thống nhất ý chí với nhau. Nếu theo tinh thần của những điều luật trên thì tất cả những loại văn bản mà các bên trao đổi cho nhau đều là các dự thảo hợp đồng và đều phải có sự “đồng ý” hoặc “chấp thuận” của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông… Mỗi lần như vậy, các cơ quan này lại phải tổ chức họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản để có thể xem xét và thông qua những bản dự thảo hợp đồng. Như vậy, đến khi đến được quá trình ký kết hợp đồng, thì sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức để các cơ quan có thẩm quyền trong doanh nghiệp thực hiện được quyền kiểm soát đối với những hợp đồng có khả năng dẫn đến tình trạng tư lợi này. Trong khi việc kiểm soát đến mức chi tiết, cụ thể từng văn bản trao đổi trong quá trình trao đổi là không thực sự cần thiết.

Ngoài ra, nếu dùng thuật ngữ “dự thảo hợp đồng” như trong Điều 67, Điều 86 và Điều 162 Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn dẫn đến một bất cập khác đó là chưa chắc đã xác định được chính xác các trường hợp cần phải có sự kiểm soát cúa các cơ quan có thẩm quyền. Bởi lẽ, sự khác nhau giữa “dự thảo hợp đồng” và “hợp đồng” là ở chỗ “hợp đồng” là “sự thỏa thuận” thể hiện ý chí của ít nhất hai chủ thể trong khi đó, “dự thảo” có thể chỉ là sự thể hiện ý chí một phía của một bên chủ thể. Để có thể xác định các trường hợp “hợp đồng” cần phải có sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền trong doanh nghiệp, các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đều dựa vào tiêu chí đó là chủ thể còn lại trong hợp đồng là những chủ thể đặc biệt, hoặc là một trong các chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc là những đối tượng giữ các chức danh quản lý, hoặc là những đối tượng có liên quan của những đối tượng trên… là những chủ thể có ít nhiều liên quan đến công ty nên hợp đồng mà họ giao kết với công ty có thể dẫn đến khả năng tư lợi cho bản thân họ và gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của công ty. Vậy trong trường hợp chưa xác định được chủ thể còn lại cụ thể thì chưa chắc giao dịch này rơi vào trường hợp cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ của doanh nghiệp.

Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198


Tóm lại, để có thể khắc phục tình trạng bất hợp lý trên, có thể thiết kế lại những quy định tại Điều 67, Điều 86 hoặc Điều 162 theo hướng để các cơ quan có thẩm quyền trong các doanh nghiệp có thể kiểm soát được những “hợp đồng” dễ phát sinh tư lợi thì họ phải thông qua hai thủ tục: Thứ nhất, thông qua chủ trương của hợp đồng và nội dung này giữ lại toàn bộ quy định hiện hành về thủ tục thông qua dự thảo hợp đồng trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Thứ hai, thông qua hợp đồng sau khi đã thống nhất ý chí giữa các bên trong hợp đồng và bản thân doanh nghiệp cần kiểm soát phải có nghĩa vụ thông báo cho chủ thể phía bên kia về thủ tục kiểm soát như là điều kiện để phát sinh hiệu lực của hợp đồng.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương - Công ty Luật TNHH Everest

Xem thêm:


Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
  1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected], [email protected]