-->

Giải quyết tranh chấp về thừa kế khi hết thời hiệu khởi kiện?

Bố mất mẹ sang tên GCNQSD đất (đất là tài sản chung của bố mẹ) sau đó mẹ chia tài sản cho một số người con và những người còn lại phát sinh tranh chấp thì giải quyết thế nào?

Hỏi: Cha mẹ tôi có 10 người con (4 trai và 6 gái). Năm 1998 cha tôi mất, mẹ tôi đứng tên toàn bộ quyền sử dụng đất (trước đó cha tôi đứng tên nhưng là tài sản chung của cha me tôi), năm 2005 mẹ tôi có chia đất cho 3 người con trai và 1 người con gái (đã chuyển quyền sử dụng đất và làm sổ đỏ riêng). Năm 2015 gia đình tôi xảy ra tranh chấp, 3 chị gái tôi yêu cầu chia tài sản nhưng mẹ tôi và các anh chị em khác không đồng ý. Tôi xin hỏi nếu 3 chị gái tôi thưa ra tòa thì tài sản sẽ xử lý thế nào? (gồm tài sản mẹ tôi đang sở hữu và phần đất mẹ tôi đã chia cho 4 người trước đó). ( Phạm Tiến - Thái Nguyên)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
- Thứ nhất, về quyền sở hữu và thừa kế tài sản chung

Theo thông tin bạn cung cấp, sau khi bố bạn mất đi mẹ bạn đã làm thủ tục sang tên và mẹ bạn hiện đang đứng tên trên GCNQSD đất. Vì đất là tài sản chung của bố mẹ bạn, cho nên, khi bố bạn mất đi mẹ bạn không có quyền sở hữu toàn bộ phần diện tích đất chung đó. Bố bạn mất đi do không để lại di chúc nên phần tài sản của bố bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật và theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự thì mẹ bạn không phải là người thừa kế duy nhất. Cho nên việc mẹ bạn đứng tên và chia cho một số người con như vậy là không hợp pháp.

- Thứ hai, về thời hiệu khởi kiện quyền thừa kế

Theo thông tin bạn cung cấp, bố bạn mất năm 1998 đến nay 2015 đã là 17 năm, như vậy, thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết. Do đó, trường hợp này sẽ áp dụng quy định tại Tiểu mục 2.4 Chương I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết như sau:

“2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.”

Theo quy định trên, khi hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, nếu có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Cụ thể, tại Điều 224 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về Chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung như sau:

“1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.2. Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.