-->

Gây thương tích 22% sức khỏe cho người khác có được hưởng án treo?

Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

Hỏi: Tôi đang đưa con đi học về thì có 1 nhóm thanh niên khoảng 8 người đang gây rối rồi đánh mẹ và em trai tôi, thấy vậy tôi liền lao vào và đánh nhóm thanh niên trên , trong lúc bực sức tôi đã dùng cây gậy đánh vào đầu 1 thanh niên và người đó bị tổn hại 22% sức khỏe. Sau đó tòa án ND huyện đã xử phạt tôi 27 tháng tù vì tội cố ý gây thương tích và trong khi đó tôi đã có 1 tiền án vì tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tất cả những hình ảnh mà các đối tượng kia gây rối camera nhà tôi đều ghi hình lại được, hơn thế nữa sau khi sự việc sảy ra gia đình tôi cũng đã đền bù thỏa đáng và gia đình bị hại cũng đã viết các đơn để xin cho và gia đình bị hai còn lên tận tòa án lúc tôi xét xử để xin cho tôi án treo nhưng tòa án vẫn kiên quyết xử tôi 27 tháng tù giam. Đề nghị luật sư tư vấn, tội mà tôi gây ra có thể được hưởng án treo hay không và hiện tại tôi đang được tại ngoại, và tôi cũng đang kháng án lên tòa án ND tỉnh để xử lại. ( Hải Nam - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoa - tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định vềTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:

"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mìnhe) Có tổ chức;g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân".

Từ đó, cho thấy chỉ cần gây thương tích từ 11% sức khỏe trở lên đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà không phụ thuộc vào yêu cầu khởi kiện của người bị hại.

Trong khi đó anh (chị) gây thương tích 22% sức khỏe cho người khác, mặc dù đã bồi thường cũng như bên bị hại không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự thì anh (chị) vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.

Đồng thời do mức phạt của anh (chị) là 27 tháng tù giam mà theo quy định tại khoản 1 Điều này thì mức hình phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ không được hưởng án treo, nên trường hợp của anh (chị) nếu làm đơn kháng án thì cũng chỉ có thể xem xét để được hưởng mức phạt thấp nhất theo quy định tại Điều luật này là cải tạo không giam giữ. Như vậy, anh (chị) sẽ không được hưởng án treo.

Khuyến nghị

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.